Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

1.      MỞ ĐẦU
Tăng triglcyceride máu nặng (nồng độ triglyceride huyết thanh  ≥ 1000 mg/dL) (Bảng 1) là một vấn đề còn nhiều thách thức trong thực hành lâm sàng. Một nghiên cứu gần đây cho thấy 1,7% trong 5.680 người trưởng thành tham gia cuộc khảo sát NHANES từ 2001 đến 2006 có tình trạng tăng triglyceride máu nặng [1].

ThS.BS TRẦN CÔNG DUY
Bộ môn Nội tổng quát, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
Khoa Nội tim mạch, Bệnh viện Trưng Vương

Nghiên cứu The Lipid Research Clinics Program Prevalence Study phát hiện 1,79 trên 10.000 bệnh nhân ngoại trú (< 0,02%) có nồng độ triglyceride  > 2.000 mg/dL [2]. Các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng có tỉ lệ mới mắc viêm tụy cấp gia tăng và trong hầu hết nghiên cứu có liên quan với đặc điểm chuyển hóa sinh xơ vữa động mạch và tăng nguy cơ tim mạch.  Nguyên nhân của tăng triglyceride máu nặng thường là kết hợp các yếu tố di truyền và thứ phát. Theo phân loại kinh điển của Fredrickson, các hội chứng tăng triglyceride máu nặng bao gồm típ I (tăng chylomicron máu), típ IV (tăng VLDL – very low-density lipoprotein) và típ V (tăng tàn dư VLDL và chylomicron). Mục tiêu của bài tổng quan này là trình bày nguyên nhân, chẩn đoán và các chiến lược điều trị tăng triglyceride máu nặng.
Bảng 1. Phân loại nồng độ triglyceride máu
NCEP-ATP III
Hội Nội Tiết Hoa Kỳ
Bình thường
< 150 mg/dL
Bình thường
< 150 mg/dL
Giới hạn cao
150 – 199 mg/dL
Tăng nhẹ
150 – 199 mg/dL
Cao
200 – 499 mg/dL
Tăng trung bình
200 – 999 mg/dL
Rất cao
≥ 500 mg/dL
Tăng nặng
1000 – 1999 mg/dL


Tăng rất nặng
≥ 2000 mg/dL

2.      NGUYÊN NHÂN
Triglyceride huyết thanh được sản xuất bởi gan và vận chuyển bởi VLDL, trong khi triglyceride có nguồn gốc từ mỡ trong thức ăn được vận chuyển bởi chylomicron. Cả chylomicron và VLDL được thủy phân bởi enzyme lipoprotein lipase (LPL). Triglyceride được thủy phân thành axit béo cho mô cơ và mô mỡ sử dụng, còn các tàn dư của VLDL và chylomicron được gan loại bỏ. Tăng triglyceride máu nặng  có thể do tăng sản xuất VLDL, giảm thanh thải VLDL/chylomicron hoặc phối hợp cả hai. Các nguyên nhân của các rối loạn chuyển hóa này được phân loại nguyên phát (di truyền) hoặc thứ phát (mắc phải) (Bảng 2) [3]. Ở người trưởng thành, tăng triglyceride máu nặng thường là kết quả của phối hợp các nguyên nhân nguyên phát và thứ phát. Một nghiên cứu ở 123 bệnh nhân với nồng độ triglyceride > 2.000 mg/dL cho thấy tất cả bệnh nhân có khiếm khuyến chuyển hóa nguyên phát và 110/123 bệnh nhân có đồng thời nguyên nhân thứ phát [2]. Rối loạn chuyển hóa lipoprotein di truyền thường diễn tiến âm thầm cho đến khi có nguyên nhân thứ phát cùng làm nồng độ triglyceride tăng đủ cao để gây ra các hội chứng tăng triglyceride máu nặng.
Nguyên nhân nguyên phát thường gặp nhất của tăng triglyceride máu nặng ở người trưởng thành là tăng triglyceride máu nặng có tính gia đình, một tình trạng di truyền nhiễm sắc thể trội với tỉ lệ hiện mắc từ 1-2% đến 5-10% dân số [4]. Các nguyên nhân di truyền khác hiếm gặp hơn như thiếu LPL (1 trong 1 triệu người), đột biến apolipoprotein C-II  và các đột biến khác gây ra giảm gắn kết với LPL [5]. Các nguyên nhân nguyên phát của tăng triglyceride máu nặng thường được liệt kê theo các kiểu hình Fredrickson (Bảng 2). Một số nghiên cứu gen gần đây phát hiện cơ sở đa gen phức tạp đối với các phân loại Fredrickson và đề nghị các yếu tố gen chưa xác định khác và yếu tố không liên quan gen có thể góp phần ý nghĩa vào kiểu hình cuối cùng [6]. Chẩn đoán rối loạn lipid máu có tính gia đình cần khai thác tiền sử gia đình chính xác, đây là một điều có thể khó đạt được trong thực hành lâm sàng.
Các nguyên nhân thứ phát của tăng triglyceride máu nặng có thể được phân loại theo “4-D”: Diseases (bệnh lý), Diet (chế độ ăn), Disorder of  Metabolism (rối loạn chuyển hóa), và Drugs (thuốc). Tình trạng thường gặp nhất liên quan với tăng triglyceride máu là béo phì. Cơ chế liên quan giữa béo phì và tăng triglyceride máu phức tạp và có thể liên quan với sự tăng dòng axit béo từ mô mỡ đến các mô khác và đề kháng insulin. Một báo cáo hàng loạt ca viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu phát hiện đái tháo đường hoặc lạm dụng rượu là nguyên nhân thứ phát chủ yếu của tăng triglyceride máu [7]. Nguyên nhân tăng triglyceride máu ở các bệnh nhân đái tháo đường do đa yếu tố: thiếu insulin làm giảm nồng độ LPL (insulin cần cho tổng hợp LPL), trong khi đề kháng insulin làm giảm khả năng của insulin trong việc giảm tổng hợp cholesterol tại gan, do đó tăng tiết VLDL tại gan. Rượu làm giảm ly giải mỡ và tăng sản xuất VLDL có thể dẫn đến tăng triglyceride máu nặng, đặc biệt ở các bệnh nhân suy giảm chức năng LPL. Các nguyên nhân thứ phát khác của tăng triglyceride máu nặng có thể được suy luận thông qua tiền sử bệnh lý và sử dụng thuốc.
Bảng 2. Các nguyên nhân của tăng triglyceride máu nặng
Nguyên nhân
Đặc điểm
Nguyên phát (rối loạn lipid máu có tính gia đình)
Típ I
Tăng chylomicron máu có tính gia đình
Thiếu LPL và/hoặc apo-CII
Nhiễm sắc thể lặn, ở thời thơ ấu
Các rối loạn chức năng LPL hiếm gặp
Típ IV
Tăng triglyceride máu có tính gia đình: tăng VLDL
Nhiễm sắc thể trội, ở người trưởng thành
Tăng lipid máu hỗn hợp có tính gia đình
Nhiều kiểu hình; tăng nồng độ apo-B
Típ V
Tăng triglyceride máu hỗn hợp
Tăng VLDL và chylomiron, ở người trưởng thành
Thứ phát
Bệnh lý
Đái tháo đường kiểm soát kém; suy giáp; lupus; hội chứng Cushing; nhiễm HIV; đa u tủy; béo phì; bệnh thận (hội chứng thận hư)
Rối loạn chuyển hóa
Thai kỳ
Chế độ ăn
Lạm dụng rượu, đặc biệt với chế độ ăn nhiều chất béo
Thuốc
Estrogen; tamoxifen; glucocorticoids; ức chế protease; ức chế beta không chọn lọc; propofol; isotretinoin; một số thuốc chống loạn thần (clozapine, olanzapine); tacrolimus; sirolimus; cyclosporine; bexarotene; all-trans retinoic acid; L-asparaginase; interferon-α

3.      CHẨN ĐOÁN
Để chẩn đoán tăng triglyceride máu, bệnh nhân cần được xét nghiệm máu sau nhịn đói 9-12 giờ. Nồng độ triglyceride máu lúc đói phản ánh sự sản xuất triglyceride tại gan. Mặc dù nồng độ triglyceride lúc không nhịn đói có thể phản ánh chylomicron sau ăn nhưng trị số > 1.000 mg/dL gợi ý tăng triglyceride máu thực sự, nhất là trong bệnh cảnh viêm tụy cấp. Điều trị không nên trì hoãn để xét nghiệm nồng độ triglyceride máu lúc đói.
Bảng 3 liệt kê tiếp cận chẩn đoán bao gồm tiền sử, bệnh sử, khám thực thể và các xét nghiệm cận lâm sàng ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Khám thực thể có thể phát hiện nhiều bất thường khi nồng độ triglyceride huyết thanh  vượt quá 1.000 mg/dL. U vàng phát ban xuất hiện khi số lượng lớn triglyceride bị bắt giữ trong các mô bào dưới da, gây ra các sẩn vàng cam nhỏ với đáy hồng ban. Phát hiện này có thể bị bỏ sót nếu không khám kỹ các mặt duỗi của cánh tay, cẳng chân, lưng và mông. Điều trị hạ lipid máu hiệu quả sẽ biến mất các u vàng này. Khám mắt có thể phát hiện lipemia retinalis, tình trạng xuất hiện khi các mạch máu võng mạc có màu trắng do tăng lipid huyết thanh và tương phản với võng mạc màu hồng cam nhạt. Mặc dù thay đối võng mạc đáng kể nhưng những biến đổi này không làm giảm thị lực. Gan to do thâm nhiễm mỡ ở gan thường xảy ra, và hạch to lan tỏa cũng có thể xảy ra.
Các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết trong đánh giá tăng triglyceride máu nặng bao gồm hormon tuyến giáp, creatinine, ure huyết thanh và tổng phân tích nước tiểu. Xét nghiệm hemoglobin A1C cung cấp thông tin về mức độ kiểm soát đường huyết và đã được công nhận là tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường. Xét nghiệm chức năng gan thường phát hiện tăng men gan do viêm gan thoái hóa mỡ và cũng cho biết trị số ban đầu trước khi bắt đầu điều trị thuốc hạ lipid máu. Các xét nghiệm khác có thể hữu ích ở các bệnh nhân chọn lọc: xét nghiệm HIV, điện di protein huyết thanh, và điện di protein nước tiểu để giúp chẩn đoán tăng paraprotein máu như đa u tủy; kháng thể kháng nhân ANA và Anti ds-DNA để chẩn đoán lupus.
Tăng triglyceride máu nặng có thể ảnh hưởng kết quả của 2 xét nghiệm phổ biến khác. Nồng độ natri có thể thấp giả do nồng độ cao của triglyceride chiếm chỗ nước chứa natri trong huyết thanh. Do ảnh hưởng bởi lipid huyết tương, nồng độ amylase có thể gần bình thường ở đến 50% bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu tại thời điểm nhập viện. Do đó, nếu khả năng nghi ngờ viêm tụy cao thì cần chẩn đoán hình ảnh nếu nồng độ amylase hoặc lipase không giúp chẩn đoán xác định. Chẩn đoán hình ảnh bụng bằng chụp cắt lớp điện toán hoặc cộng hưởng từ có thể được sử dụng để chẩn đoán viêm tụy cấp.
Sau lạm dụng rượu và bệnh sỏi mật, tăng triglyceride máu nặng là nguyên nhân đứng hàng thứ ba của viêm tụy cấp,  chiếm đến 10% trường hợp trong dân số chung [8]. Cơ chế chính xác tăng triglyceride máu nặng gây viêm tụy cấp thì không rõ. Nồng độ triglyceride huyết thanh tăng được giả thuyết rằng thủy phân tại tụy làm tăng axit béo tự do khu trú, gây ra tình trạng viêm và biểu hiện lâm sàng viêm tụy cấp [9]. Một giả thuyết khác cho rằng nồng độ chylomiron tăng dẫn đến tăng độ nhớt huyết tương, dẫn đến thiếu máu cục bộ và toan hóa khu trú ở các mao mạch tụy [10]. Một nghiên cứu ở 129 bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng cho thấy nồng độ triglyceride trung bình ở các bệnh nhân viêm tụy cấp cao hơn các bệnh nhân không viêm tụy cấp (4.470 so với 2.450 mg/dL), gợi ý ngưỡng xuất hiện việm tụy cấp cao hơn từng nghĩ trước đây [11]. Vì lý do không có một ngưỡng triglyceride xác định mà bệnh nhân bị viêm tụy cấp nên quyết định cho bệnh nhân nhập viện có thể khó khăn.
Bảng 3. Đánh giá bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng
Tiền sử và bệnh sử
Tiền sử gia đình rối loạn lipid máu
Cân nặng tối đa và hiện tại
Sử dụng thuốc (kể cả các thuốc đã ngừng gần đây)
Sử dụng rượu
Đái tháo đường
Khám thực thể
U vàng phát ban (eruptive xanthoma)
Lipemia retinalis
Gan to
Hạch to
Xét nghiệm cận lâm sàng
Ure, creatinin huyết thanh
Tổng phân tích nước tiểu
Glucose, HbA1C
Bilan lipid
TSH, FT4
Chức năng gan
Amylase, lipase

4.      CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ
4.1 Mục tiêu điều trị
Chiến lược điều trị dựa vào sự hiện diện hoặc không có các triệu chứng. Điều trị viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng cần giảm nồng độ triglyceride máu < 1.000 mg/dL và điều trị triệu chứng. Ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng không triệu chứng đau bụng hoặc viêm tụy cấp, mục tiêu điều trị là duy trì nồng độ triglyceride dưới 1000 mg/dL. Tuy nhiên, mục tiêu điều trị ở các bệnh nhân này cũng như các bệnh nhân tăng triglyceride máu trung bình nên là trị số triglyceride thấp nhất có thể đạt được bằng chế độ ăn, điều chỉnh lối sống và điều trị thuốc.
Khi nào cần nhập viện?
Sự quyết định nhập viện đối với bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng trước hết dựa vào sự hiện diện của đau bụng và/hoặc viêm tụy cấp. Nếu bệnh nhân đau bụng, bệnh nhân nên được nhập viện và đánh giá các yếu tố khởi phát và bắt đầu điều trị thuốc ngay lập tức. Nếu không đau bụng, quyết định cho nhập viện cần dựa vào đánh giá lâm sàng. Trong các trường hợp này, nên hội chẩn với bác sĩ có kinh nghiệm trong điều trị rối loạn lipid máu.Việc nhập viện thường dựa vào các yếu tố như (1) tăng triglyceride máu nặng cần điều trị insulin nội trú; (2) tăng triglyceride máu nặng ở mức hoặc gần mức mà bệnh nhân bị viêm tụy cấp trong quá khứ và tuân thủ điều trị kém; (3) các yếu tố khởi phát tăng triglyceride máu nặng không loại bỏ được như đang sử dụng các thuốc cần thiết (như một số thuốc hóa trị) hoặc thai kỳ ở tam cá nguyệt thứ ba. Nồng độ triglyceride tiếp tục tăng trong thai kỳ và đạt đỉnh trong tam cá nguyệt thứ ba, thời kỳ mà viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng thường xảy ra. Các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng không triệu chứng không nhập viện, cần được theo dõi ngoại trú sát để phòng ngừa biến chứng.
4.2 Điều trị nguyên nhân
Các nguyên nhân thứ phát của tăng triglyceride máu nặng cần được tầm soát và điều trị. Hầu hết các bệnh nhân tăng lipid máu típ IV và típ V thường có rối loạn di truyền chuyển hóa triglyceride phối hợp với nguyên nhân thứ phát như đái tháo đường típ 2, lạm dụng rượu, chế độ ăn nhiều chất béo, suy giáp, hội chứng thận hư hoặc suy thận mạn. Đái tháo đường típ 2 không kiểm soát là một nguyên nhân thường gặp của tăng triglyceride máu và điều trị tích cực (đặc biệt là sử dụng insulin) nên là mục tiêu chính. Ngoài ra, cần lưu ý ngưng và giảm liều một số thuốc làm tăng nồng độ triglyceride huyết thanh như ức chế beta, lợi tiểu thiazide, corticosteroid liều cao, estrogen liều cao, isotretionin, tamoxifen, thuốc chống loạn thần, thuốc chống hoại tử u hoặc kháng retrovirus ….
4.3 Điều chỉnh lối sống
Thay đổi lối sống và chế độ ăn là các biện pháp cần thiết trong điều trị tăng triglyceride máu nặng. Giảm cân và chế độ ăn giảm lipid máu có liên quan với cải thiện các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch và nguy cơ bệnh tim mạch. Do đó, các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng nên được tư vấn giảm ăn chất béo, chiếm 15-20% tổng năng lượng nhập mỗi ngày (cả chất béo không bão hòa và bão hòa). Các bệnh nhân đề kháng insulin và đái tháo đường nên tránh các thức ăn và thức uống nhiều đường. Lượng fructose nhập mỗi ngày không hơn 50 mg để tránh tăng nồng độ triglyceride huyết tương so với các loại đường khác. Ít nhất 2 khẩu phần hải sản mỗi tuần giàu axit béo omega-3 (như cá hồi) được khuyên ăn. Tiết chế rượu, giảm cân và hoạt động thể lực là các biện pháp điều trị cần thiết. Tất cả bệnh nhân cần ngưng hút thuốc lá. Khi bệnh nhân đạt nồng độ triglyceride máu < 500 mg/dL, theo hướng dẫn ATP (Adult Treatment Panel) III, mỡ bão hòa trong chế độ ăn < 7% và mỡ toàn phần từ 25% đến 35% [12].
Các bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng nên nhịn ăn để tụy nghỉ ngơi, ngoại trừ các thuốc uống cần thiết, và không ăn chất béo. Vì sự sản xuất chylomicron ở ruột giảm nên nồng độ triglyceride sẽ giảm đáng kể trong vòng 1-2 ngày nhịn ăn bất kể các biện pháp điều trị khác. Một khi nồng độ triglyceride < 1.000 mg/dL và không còn đau bụng, chế độ ăn không chất béo có thể bắt đầu trở lại. Các bệnh nhân đau bụng dai dẳng cần nhịn đói kéo dài (> 5-7 ngày) có thể cần các phương pháp thay thế như nuôi ăn qua đường ruột bằng ống sonde hoặc nuôi ăn qua đường tĩnh mạch. Nếu nuôi ăn qua đường ruột, nên bắt đầu chế độ ăn cơ bản với peptide, không chất béo, với sự tư vấn từ chuyên gia dinh dưỡng. Nuôi ăn qua đường ruột có thể bổ sung dầu triglyceride chuỗi trung bình (dầu dừa và dầu cọ). Triglyceride chuỗi trung bình không làm tăng nồng độ triglyceride huyết thanh, vì được hấp thu trực tiếp vào tĩnh mạch cửa để oxy hóa tại gan, trong khi triglyceride chuỗi dài được chuyển thành chylomicron để vận chuyển ngoại biên. Một báo cáo trường hợp mô tả đáp ứng điều trị với dầu triglyceride chuỗi trung bình ở một bệnh nhân tăng chylomicron máu có tính gia đình [13], mặc dù không có khuyến cáo điều trị các dầu này thường quy do thiếu dữ liệu an toàn dài hạn. Nếu nuôi ăn qua đường tĩnh mạch , cần tránh dung dịch lipid để tránh tăng triglyceride huyết thanh.

4.4 Điều trị thuốc
Các thuốc uống nên được khởi trị để làm giảm nồng độ triglyceride đối với các bệnh nhân có triệu chứng và không triệu chứng. Bảng 4 liệt kê các nhóm thuốc khác nhau. Fibrate là thuốc điều trị hàng đầu, và các thuốc khác có tác dụng điều trị hỗ trợ. Nếu fibrate không đạt mục tiêu triglyceride huyết thanh, điều trị hỗ trợ bằng axit beo omega-3. Thuốc này được xem là thuốc hỗ trợ hàng đầu do ít tác dụng phụ. Nếu cần giảm triglyceride thêm nữa, niacin hoặc axit nicotinic (vitamin B3) có thể thêm vào. Nếu nồng độ triglyceride vẫn chưa đạt mục tiêu, orlistat có thể hữu ích. Mặc dù statin mạnh như atorvastatin và rosuvastatin có thể giảm đáng kể triglyceride nhưng sử dụng statin cần dựa vào nguy cơ bệnh tim mạch do xơ vữa.
Hướng dẫn của Hội Nội Tiết Hoa Kỳ năm 2012 [14] có một số khuyến cáo về điểu trị thuốc ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng:
v  Fibrate được khuyến cáo sử dụng như thuốc đầu tay để giảm triglyceride ở các bệnh nhân có nguy cơ viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng.
v  Ba nhóm thuốc (fibrate, niacin, axit béo n-3) đơn trị hoặc phối hợp với statin được xem xét là các chọn lựa điều trị ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng.
v  Statin không được sử dụng như đơn trị liệu đối với tăng triglyceride máu nặng hoặc rất nặng. Tuy nhiên, statin có thể hữu ích đối với điều trị tăng triglyceride máu trung bình khi được chỉ định để cải thiện nguy cơ tim mạch.
Fibrate
Fibrate nên được sử dụng ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Fibrate giảm nồng độ triglyceride 30-50% và tăng HDL-C [15]. Ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng, LDL-C có thể tăng, trong khi ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nhẹ, LDL-C có thể giảm.
Fibrate tăng oxy hóa axit béo, tăng tổng hợp LPL và giảm biểu hiện apoC-III, từ đó giảm sản xuất triglyceride từ VLDL và tăng dị hóa lipoprotein giàu triglyceride qua trung gian LPL. Các tác dụng phụ bao gồm rối loạn tiêu hóa và có thể tăng tỉ lệ sỏi mật cholesterol. Fibrate bị chống chỉ định ở các bệnh nhân bệnh gan và túi mật. Các dẫn xuất axit fibric nên được sử dụng thận trọng trong bệnh cảnh suy thận bởi vì thuốc được bài tiết qua nước tiểu và có thể làm tăng nồng độ creatinine, nhất là fenofibrate. Fenofibrate không cản trở chuyển hóa statin và có nguy cơ thấp gây bệnh cơ, nên là fibrate được ưa thích phối hợp với statin. Do ảnh hưởng lên gắn kết protein, fibrate có tương tác với warfarin, cần theo dõi cẩn thận. Ở các bệnh nhân không có đái tháo đường và có nguy cơ thấp bệnh mạch vành, gemfibrozil hoặc fenofibrate có thể được sử dụng để giảm nồng độ triglyceride huyết thanh. Tuy nhiên, ở các bệnh nhân đái tháo đường, bệnh mạch vành hoặc yếu tố nguy cơ tương đương bệnh mạch vành, fenofibrate được ưa thích phối hợp với statin để đạt mục tiêu LDL-C. Không như gemfibrozil, fenofibrate không cản trở sự glucuronide hóa statin tại gan. Gemfibrozil có thể được xem xét ở phụ nữ mang thai tăng triglyceride máu nặng có nguy cơ viêm tụy cấp bắt đầu vào tam cá nguyệt thứ hai.
Axit béo omega-3
Axit béo omega-3 chuỗi dài nguồn gốc hải sản[eicosapentaenoic acid, C20:5n-3 (EPA) và docosahexaenoic acid, C22:6n-3 (DHA)] giảm nồng độ triglyceride lúc đói và sau ăn theo kiểu phụ thuộc liều. Khoảng 3-4 g/ngày EPA và DHA giảm triglyceride máu 20-50%, HDL-C tăng nhẹ khoảng 5% [16]. Khi giảm nồng độ triglyceride, axit béo omega-3 có thể gây tăng nồng độ LDL-C do chuyển VLDL sang LDL. Axit béo omega-3 chứa 20 – 80% EPA và DHA tùy loại chế phẩm. Tác dụng phụ của liều cao axit béo omega-3 bao gồm vị giác và ợ hơi mùi cá. Ngoài ảnh hưởng của lên nồng độ triglyceride, chế độ ăn giàu axit béo omega-3 có các kết cục dương tính lên bệnh tim mạch.
Niacin
Với liều 500-2000 mg/ngày, niacin giảm triglyceride 10-30%, tăng HDL-C 10-40%, và giảm LDL-C 5-20% [17]. Mặc dù liều cao hơn của niacin với thời gian tác dụng trung bình được sử dụng nhưng liều tối đa của niacin tác dụng dài là 2000 mg/ngày, cần tăng dần liều từ từ theo thời gian. Niacin làm phóng thích prostaglandin D2 từ các tế bào da, gây dãn mạch. Tác dụng phụ thường gặp nhất là đỏ da, thường xảy ra ở vài liều đầu tiên. Tác dụng phụ này xảy ra 15 đến 30 phút sau khi uống và điển hình kéo dài 15 đến 30 phút. Bệnh nhân nên uống niacin sau ăn và sử dụng thuốc aspirin không có vỏ bao trước ăn để giảm đỏ da. Biến chứng nặng nhất của điều trị niacin là độc tính trên gan (phụ thuộc liều), và điều trị nên đi kèm theo dõi xét nghiệm chức năng gan. Các tác dụng phụ khác của niacin bao gồm rối loạn dung nạp glucose và tăng axit uric máu. Niacin có thể được sử dụng an toàn ở các bệnh nhân rối loạn dung nạp glucose và ở bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị thuốc uống hoặc insulin có kiểm soát đường huyết trung bình hoặc tốt nhưng có thể chuyển rối loạn dung nạp glucose sang đái tháo đường ở một số bệnh nhân. Niacin có thể tăng nồng độ axit uric do ức chế bài tiết và có thể thúc đẩy hoặc làm nặng thêm gút nếu bệnh nhân không được điều trị allopurinol. Niacin bị chống chỉ định ở bệnh nhân loét dạ dày tiến triển.
Statin
Statin ức chếhydroxymethylglutaryl coenzyme A reductase, có tác dụng giảm triglyceride trung bình, khoảng 10-15%, phụ thuộc liều. Liều cao statin có hiệu quả mạnh như atorvastatin 80 mg hoặc rosuvastatin 40 mg, có thể hạ triglyceride huyết tương 25-30%. Đơn trị statin không nên là điều trị đầu tay để giảm nồng độ triglyceride ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Tác dụng phụ của statin xảy ra ở khoảng 5-10% bệnh nhân.  Triệu chứng cơ bao gồm từ chuột rút cẳng chân đến yếu cơ ở khoảng 10% bệnh nhân, trong khi ly giải cơ vân hiếm xảy ra [18]. Các tình trạng thúc đẩy bệnh cơ nặng bao gồm lớn tuổi, suy thận, sử dụng nhiều thuốc và bệnh cấp tính. Statin làm tăng nhẹ men gan (đến 3 lần giới hạn trên bình thường) có thể được dung nạp an toàn.
Orlistat
Orlistat, một thuốc ức chế lipase ruột, được sử dụng để giảm cân, có thể giảm nồng độ triglyceride sau ăn. Đây là phương pháp giảm hấp thu mỡ, có thể hữu ích ở bệnh nhân tăng chylomicron máu lúc đói. Orlistat được sử dụng phối hợp với fibrate. Tác dụng phụ bao gồm chướng bụng,  tiêu chảy, tiêu không tự chủ và có liên quan với lượng mỡ trong chế độ ăn. Một số trường hợp tổn thương gan nặng hiếm xảy ra liên quan với orlistat.
Bảng 4. Các thuốc điều trị tăng triglyceride máu nặng
Thuốc
Liều lượng
Giảm triglyceride
Thận trọng hoặc chống chỉ định
Bàn luận
Fenofibrate
130 -200 mg/ngày
# 50%
Suy gan hoặc suy thận
Fibrate tốt nhất phối hợp với statin
Gemfibrozil
600 mg 2 lần/ngày
# 50%
Suy gan hoặc suy thận
Tránh phối hợp với statin
Statin
Thay đổi,
giảm LDL càng nhiều thì giảm triglyceride càng nhiều
# 25%
Xơ gan mất bù; bệnh thận giai đoạn cuối
Không phải là điều trị hàng đầu ở bệnh nhân triglyceride > 1000 mg/dL; atorvastatin, fluvastatin được ưa thích ở bệnh nhân suy thận do ít bài tiết qua thận
Axit béo Omega-3
2 g 2 lần/ngày
(840 mg DHA/EPA mỗi liều)
# 25-50% (đơn trị liệu), # 30% (điều trị phối hợp)
Dị ứng với cá
Đầy hơi, có thể tăng đường huyết và LDL, nguy cơ xuất huyết thấp
Axit nicotinic
1-2 g/ngày, chỉnh liều từ liều thấp nhất
15-35%
Bệnh gan tiến triển; loét dạ dày tiến triển; xuất huyết động mạch
Có thể gây tăng đường huyết do tăng đề kháng insulin
Orlistat
120 mg 3 lần/ngày
15-35%
Rối loạn chức năng gan nặng
Có thể cản trở hấp thu thuốc, nhất là vitamin tan trong mỡ
Insulin
0,1-0,3 UI/kg/giờ TTM, duy trì đường huyết 140-180 mg/dL hoặc TDD insulin nền/bolus
Thay đổi, > 50% ở một số ca
Hạ đường huyết
Hữu ích ở bệnh nhân đái tháo đường

4.5 Các biện pháp điều trị khác
Insulin
Insulin làm tăng hoạt tính lipoprotein lipase, do đó thúc đẩy thoái giáng chylomicron. Insulin (cùng với glucose nếu cần để duy trì đường huyết bình thường) là một biện pháp hạ triglyceride hỗ trợ hữu ích cho các thuốc uống thậm chí ở các bệnh nhân không đái tháo đường. Insulin đường tĩnh mạch được chỉnh liều bằng cách theo dõi đường huyết mỗi giờ. Mục tiêu sử dụng insulin ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng không phải là kiểm soát đường huyết chặt chẽ mà là duy trì hoạt hóa LPL bằng insulin ngoại sinh và tránh hạ đường huyết. Không có khuyến cáo chính thức từ các Hội chuyên ngành, phác đồ insulin được đề nghị là: 0,1-0,3 UI/kg/giờ; không cần bolus insulin; truyền dung dịch chứa dextrose khi đường huyết < 180 mg/dL, duy trì đường huyết 140 – 180 mg/dL [3]. Insulin tiêm dưới da cũng có thể hạ triglyceride thành công. Hạn chế chính của insulin tiêm dưới da là không thể điều chỉnh liều nhanh khi cần, nhất là ở các bệnh nhân không có đái tháo đường. Insulin nền tiêm dưới da có thể được sử dụng ở bệnh nhân cần điều trị dài hạn insulin sau khi hạ đáng kể triglyceride bằng insulin đường tĩnh mạch.
Heparin
Heparin được sử dụng ở một số ca như điều trị hỗ trợ viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng. Mặc dù heparin có thể tăng nồng độ LPL trong máu nhưng tác dụng này ngắn hạn và heparin làm tăng thoái giáng LPL tại gan. Do đó, heparin không được sử dụng thường quy trong điều trị tăng triglyceride máu nặng.
Thay huyết tương
Được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1978, thay huyết tương được chứng minh hạ nồng độ triglyceride đáng kể và nhanh chóng [19]. Kể từ lần đầu tiên đó, thay huyết tương được sử dụng trong một số nghiên cứu hàng loạt ca. Tần suất và thời gian tối ưu của thay huyết tương chưa rõ do không có dữ liệu từ các nghiên cứu lớn hơn. Một bài tổng quan đề nghị sử dụng thay huyết tương như điều trị hàng đầu miễn là đường huyết bình thường, thay huyết tương có thể bắt đầu trong vòng 48 giờ sau chẩn đoán và bệnh nhân có thể dung nạp đường tĩnh mạch trung tâm [20]. Mặt khác, hướng dẫn từ Hiệp Hội Lọc máu Hoa Kỳ (American Society of Apheresis) không khuyến cáo thay huyết tương là điều trị hàng đầu hoặc hàng thứ hai ở các bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng nhưng đề nghị thay huyết tương dựa vào tình trạng từng trường hợp [21]. Khi cần thay huyết tương, Hiệp Hội khuyến cáo điều trị mỗi ngày trong 1 – 3 ngày đến khi đạt mục tiêu nồng độ triglyceride. Mặc dù thay huyết tương hạ nhanh triglyceride nhưng đây là biện pháp xâm lấn (cần có catheter lọc máu), đắt tiền, và có thể không có sẵn ở bệnh viện. Đó là một lựa chọn cho các bệnh nhân không đáp ứng chế độ ăn hạn chế mỡ, kiểm soát đường huyết bằng insulin, và điều trị các thuốc như fibrate, axit béo omega-3. Việc sử dụng thay huyết tương thường quy không được khuyến cáo nếu không có dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh vai trò của thay huyết tương với các biện pháp ít xâm lấn khác. Bảng 5 liệt kê một số nghiên cứu về thay huyêt tương trong điều trị tăng triglyceride máu nặng.
Bảng 5. Các nghiên cứu về thay huyết tương trong tăng triglyceride máu nặng
Nghiên cứu
Phương pháp
thay huyết tương
Triglyceride
Chen và cộng sự (94 bệnh nhân) [22]
Huyết tương tươi đông lạnh và albumin
Trong hầu hết nghiên cứu, giảm ý nghĩa (thường > 60%)
Gubensec và cộng sự (50 bệnh nhân) [23]
Albumin
Yeh và cộng sự (18 bệnh nhân) [24]
Huyết tương tươi đông lạnh và albumin, lọc màng đôi
Stefanutti và cộng sự (17 bệnh nhân) [25]
Albumin

4.6 Hướng điều trị trong tương lai
Liệu pháp gen được sử dụng để điều trị thiếu LPL. Liệu pháp này bao gồm  nhiều lần tiêm bắp biến thể LPL tăng hoạt với vector virus. Các nghiên cứu đầu tiên cho thấy giảm tỉ lệ viêm tụy cấp; tuy nhiên điều trị này có tác dụng thoáng qua lên nổng độ triglyceride. Trong một nghiên cứu nhãn mở 3 tháng, LPLS447X-adeno-associated virus subtype 1 (AAV1) vector 1,2 được tiêm vào cơ cẳng chân của 8 bệnh nhân thiếu LPL [26]. Thuốc được dung nạp tốt và không có biến cố nặng. Tại thời điểm 12 tuần, nồng độ triglyceride giảm ý nghĩa ở nhóm liều thấp và liều cao lần lượt là 27% và 41% (p < 0,007). Điều trị này cho phép bệnh nhân thiếu LPL ổn định chylomicron máu sau ăn. Liệu pháp gen có thể trở thành công cụ hữu ích để đạt kiểm soát lâu dài tăng triglyceride máu nặng trong tương lai.
Ức chế protein vận chuyển ty thể có tác dụng hạ triglyceride. Các thuốc này đang được phát triển nhưng nhiều thuốc bị ngưng lại do gan nhiễm mỡ và độc tính gan. Lomitapide phối hợp ezetimibe giảm triglyceride và LDL-C ở các bệnh nhân tăng cholesterol máu trung bình. Thuốc ức chế protein vận chuyển ty thể chuyên biệt cho ruột đang được phát triển, hạ nồng độ triglyceride có thể do giảm sản xuất chylomicron mà không gây độc tính gan [27].
Điều trị bằng các oligonucleotide kháng apoC-III hoặc phospholipase A2 không phụ thuộc canxi (liên quan sản xuất VLDL và chylomicron) hạ nồng độ triglyceride ở các mô hình động vật [28]. Tuy nhiên, tác dụng của điều trị tiềm năng này ở người cần được kiểm nghiệm.
Một số tác giả đề nghị các bệnh nhân thiếu LPL nên chủng ngừa cúm, do virus cúm có liên quan với viêm tụy cấp và có tình trạng nhập viện theo mùa của các bệnh nhân này sau nhiễm trùng hô hấp. Thực ra, cúm H1N1 có ảnh hưởng chuyển hóa lipid ở heo [28].
5.      KẾT LUẬN
Tóm lại, tình trạng tăng triglyceride máu nặng  làm tăng tỉ lệ viêm tụy cấp và trong phần lớn các nghiên cứu có liên quan với nguy cơ tim mạch. Nguyên nhân của tình trạng này thường là phối hợp các nguyên nhân di truyền và thứ phát. Hầu hết các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng cần được điều trị bằng cách phối hợp điều chỉnh lối sống và các thuốc hạ lipid máu với các cơ chế chế tác dụng khác nhau. Fibrate là điều trị hàng đầu đối với bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Các thuốc uống hạ triglyceride khác có thể xem xét phối hợp như axit béo omega-3, niacin, statin liều cao và orlistat. Các biện pháp can thiệp như truyền insulin hoặc thay huyết tương hữu ích ở các bệnh nhân chọn lọc hoặc trong trường hợp cấp cứu. Liệu pháp gen và các điều trị mới hơn đang hứa hẹn nhưng cần nhiều nghiên cứu để đánh giá tính an toàn và hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Christian JB, et al. Prevalence of severe (500 to 2,000 mg/dL) hypertriglyceridemia in United States adults. Am J Cardiol 2011; 107: 891-897.
2.    Brunzell JD, Bierman EL. Chylomicronemia syndrome, Interaction of genetic and acquired hypertriglyceridemia. Med Clin North Am 1982; 66: 455-468.
3.    Schaefer EW, et al. Management of severe hypertriglyceridemia in the hospital: a review. Journal of Hospital Medicine 2012; 7 (5): 431-8.
4.    Yuan G, et al. Hypertriglyceridemia: its etiology, effects and treatment. CMAJ 2007; 176: 1113-1120.
5.    Priore Oliva C, et al. Inherited apolipoprotein A-V deficiency in severe hypertriglyceridemia. Arterioscler Thromb Vasc Biol 2005; 25: 411-417.
6.    Hegele RA, et al. A polygenic basis for four classical Fredrickson hyperlipoproteinemia phenotypes that are characterized by hypertriglyceridemia. Hum Mol Genet 2009; 18: 4189-4194.
7.    Toskes PP. Hyperlipidemic pancreatitis. Gastroenterol Clin North Am 1990; 19: 783-791.
8.    Anderson F, et al. Dyslipidaemic pancreatitis clinical assessment and analysis of disease severity and outcomes. Pancreatology 2009; 9: 252-257.
9.    Havel RJ. Pathogenesis, differentiation and management of hypertriglyceridemia. Adv Intern Med 1969; 15: 117-154.
10.     Kimura W, Mossner J. Role of hypertriglyceridemia in the pathogenesis of experimental acute pancreatitis in rats. Int J Pancreatol 1996; 20: 177-184.
11.     Lioret Linares C, et al. Acute pancreatitis in a cohort of 129 patients referred for severe hypertriglyceridemia. Pancreas 2008; 37: 12-13.
12.     Executive Summary of The Third Report of The National Cholesterol Education Program (NCEP) Expert Panel on Detection, Evaluation, and Treatment of High Blood Cholesterol In Adults (Adult Treatment Panel III). JAMA 2001; 285: 2486-2497.
13.     Rouis M, et al. Therapeutic response to medium-chain triglycerides and omega-3 fatty acids in a patient with the familial chylomicronemia syndrome. Arterioscler Thromb Vasc Biol 1997; 17: 1400-1406.
14.     Berglund L, et al. Evaluation and Treatment of Hypertriglyceridemia: An Endocrine Society Clinical Practice Guideline. J Clin Endocrinol Metab 2012; 97(9): 2969–2989.
15.     Keech A, et al. Effects of long-term fenofibrate therapy on cardiovascular events in 9795 people with type 2 diabetes mellitus (the FIELD study): randomised controlled trial. Lancet 2005; 366:1849–1861.
16.     Musa-Veloso K, et al. Long-chain omega-3 fatty acids eicosapentaenoic acid and docosahexaenoic acid dose-dependently reduce fasting serum triglycerides. Nutr Rev 2010; 68:155–167.
17.     Musa-Veloso K, et al. Long-chain omega-3 fatty acids eicosapentaenoic acid and docosahexaenoic acid dose-dependently reduce fasting serum triglycerides. Nutr Rev 2010; 68:155–167.
18.     Graham DJ, et al. Incidence of hospitalized rhabdomyolysis in patients treated with lipid-lowering drugs. JAMA 2004; 292:2585–2590.
19.     Betteridge DJ, et al. Treatment of severe diabetic hypertriglyceridaemia by plasma exchange. Lancet 1978; 1: 1368.
20.     Tsuang W, et al. Hypertriglyceridemic pancreatitis: presentation and management. Am J Gastroenterol 2009; 104: 984-991.
21.     Szczepiorkowski ZM, et al. Guidelines on the use of therapeutic apheresis in clinical practice – evidence-based approach from the Apheresis Applications Committee of the American Society for Apheresis. J Clin Apher 2010; 25: 83-177.
22.     Chen JH, et al. Therapeutic plasma exchange in patients with hyperlipidemic pancreatitis. World J Gastroenterol 2004; 10: 2272-2274.
23.     Gubensek J, et al. Treatment of hyperlipidemic acute pancreatitis with plasma exchange: a single-center experience. Ther Apher Dial 2009; 13: 314-317.
24.     Yeh JH, et al. Plasmapheresis for hyperlipidemic pancreatitis. J Clin Apher 2003; 18: 181-5.
25.     Stefanutti C, et al. Therapeutic plasma exchange in patients with severe hypertriglyceridemia: a multicenter study. Artif Organs 2009; 33: 1096-1102.
26.     Stroes ES, et al. Intramuscular administration of AAV1-lipoprotein lipase S447X lowers triglycerides in lipoprotein lipase-deficient patients. Arterioscler Thromb Vasc Biol 2008; 28: 2303-2304.
27.     Chandler CE, et al. CP-346086: an MTP inhibitor that lowers plasma cholesterol and triglycerides in experimental animals and in human. J Lipid Res 2003; 44: 1887-1901.
28.     Filippatos TD, Elisaf MS. Recommendations for severe hypertriglyceridemia treatment, are there new strategies?. Current Vascular Pharmacology 2014; 12: 598-616.
II.  GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
v  ĐIỀU TRỊ:
1.      Làm chậm tiến triển suy tim?

BS Nguyễn Thanh Hiền
BS Trần Lệ Diễm Thúy
BS Thượng Thanh Phương

Hình 3: Kết cục tiên phát nghiên cứu SPRINT
Hình 4: Các giai đoạn suy tim theo ACC/AHA và tần suất phân bố

-          Làm chậm tiến triển suy tim tùy thuộc vào BN ở giai đoạn nào của tiến trình suy tim mà tác động điều trị và tiên lượng sẽ khác nhau. Hình trên cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh các giai đoạn suy tim và tần suất phân bố trong cộng đồng. Ở giai đoạn bệnh tiến triển càng nặng, càng đòi hỏi các phương tiện điều trị khá phức tạp, tốn nhiều chi phí nhưng chỉ giải quyết cho 1 quần thể nhỏ BN “đỉnh tháp”. Người BS lâm sàng sẽ mang lại lợi ích cho người bệnh và cho cộng đồng càng lớn nếu tác động sớm khi BN chỉ tại mức nguy cơ phát triển suy tim “đáy tháp” như: THA, ĐTĐ, bệnh mạch vành, tiền căn gia đình bệnh cơ tim…  
-          Huyết áp cao là một yếu tố nguy cơ chínhđối với sự phát triển của cả hai HFpEF và HFrEF. Nhiều TNLScho thấy kiểm soát THAsẽ trì hoãn sự khởi đầu củasuy tim và kéo dài tuổi thọ. Trong khi y giới đang thảo luận về giá trị HA mục tiêu tối ưu ở đối tượng không bị ĐTĐ, thì nghiên cứu SPRINT được đăng tải gần đây đã khảo sát mức đích thấp hơn trong điều trị THA ở đối tượng THA cao tuổi (≥75 tuổi) hoặc ở bệnh nhân THA có nguy cơ cao.  9361 BN có HA tâm thu ≥ 130 mmHg và có yếu tố nguy cơ tim mạch tăng, nhưng không bị ĐTĐ vào nhóm điều trị với mức đích HA tâm thu < 120 mmHg (nhóm điều trị tích cực) hoặc vào nhóm điều trị với mức đích HA tâm thu < 140 mmHg (nhóm điều trị chuẩn). Nguy cơ tim mạch tăng khi có ≥ 1 trong các yếu tố sau: có bệnh lý tim mạch lâm sàng  hoặc dưới lâm sàng mà không phải bị đột quị (ĐTĐ hoặc có tiền sử đột quị sẽ được loại ra khỏi nghiên cứu), có bệnh thận mạn không phải bệnh thận đa nang với GFR ước tính 20-60 ml/p/1.73 m2 da, nguy cơ tim mạch 10 năm theo thang điểm Framingham ≥ 15%, hoặc ≥ 75 tuổi. Kết quả ghi nhận, so với mức đích HA < 140 mmHg thì mức đích HA < 120 mmHg đã làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, tử vong và nhập viện vì suy tim. ESC 2016 đã khuyến cáo điều trị THAsẽngăn ngừa,làm chậm sự khởi phát củasuy tim và kéo dài tuổi thọ(I-A).
-          Đề kháng insulin, có hoặc không có bệnh ĐTĐ là một yếu tố nguy cơ quan trọng cho sự phát triển suy tim. Rối loạn đường huyết có liên quan trực tiếp đến nguy cơ phát triển suy tim, với nồng độ HbA1c dự đoán mạnh mẽ cho suy tim. Những người có HbA1c > 10,5% tăng gấp 4 lần nguy cơ suy tim so với những người có HbA1c < 6,5%. Gần đây, TNLS EMPA-REG OUTCOME trên 7020 BN bị ĐTĐ2 đã chứng minh thuốc empaglifozin (chất ức chế natri-glucose cotransporter 2) cải thiện kết cục trên các tiêu chí cứng về tim mạch bao gồm tử vong và nhập viện vì suy tim. Các thuốc hạ đường huyết khác cho đến thời điểm hiện tại đã không chứng minh được một cách thuyết phục giảm nguy cơ biến cố tim mạch, thậm chí nó có thể làm tăng nguy cơ suy tim. Do vậy, điều trị hạ đường huyết để giảm HbA1c với các thuốc khác hơn là empagliflozin hiện tại không làm giảm nguy cơ phát triển suy tim. Và trong khuyến cáo của mình, ESC 2016 đề nghị empagliflozin nên được xem xét ở BN bị ĐTĐ2 nhằm ngăn ngừa hoặc làm chậm khởi phát suy tim và kéo dài đời sống (IIa-B).
-          Điều trị bằng statin được khuyến cáo nhằm ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát suy tim và kéo dài tuổi thọ ở những BN có BMV hoặc tại mức nguy cơ cao của BMV, có hay không kèm RLCN tâm thu thất trái (I-A).
-          Tư vấn và điều trị cai nghiện thuốc lá, giảm uống rượu được khuyến khích cho những người hút thuốc hoặc những người tiêu thụ rượu quá mức để ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát của suy tim (I-C).
-          Điều trị các yếu tố nguy cơ khác của suy tim (VD béo phì, rối loạn đường huyết) nên được xem xét để ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát của suy tim (IIa-C).
-          UCMC được khuyến cáo ở những BN có RLCN tâm thu thất trái không triệu chứng và có tiền sử  NMCT nhằm ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát suy tim và kéo dài tuổi thọ (I-A).
UCMC cũng được khuyến cáo ở những BN có RLCN tâm thu thất trái không triệu chứng và không có tiền sử NMCT nhằm ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát suy tim (I-B).
UCMC cần được xem xét ở những BN mạch vành ổn định ngay cả khi họ không có RLCN tâm thu thất trái, để ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát của suy tim (IIa-A).
-          Ức chế bđược khuyến cáo ở những BN có RLCN tâm thu thất trái không triệu chứng và có tiền sử NMCT, để ngăn ngừa hay làm chậm sự khởi phát của suy tim hoặc kéo dài cuộc sống (I-B).
-          ICD được khuyến cáo (I-B) ở những BN:
·   với RLCN tâm thu thất trái không triệu chứng (LVEF ≤30%) do thiếu máu cục bộ, và phải ≥  40 ngày sau NMCT cấp,
·   với cơ tim dãn nở không do thiếu máu cục bộ không triệu chứng (LVEF ≤30%) đã được điều trị nội khoa tối ưu, nhằm ngăn chặn đột tử và kéo dài tuổi thọ.
2.      Điều trịcụ thể bằngthuốcở BNsuy timvớiEF giảm(HFrEF)?
Mục tiêu điều trị ở BNsuy tim là cải thiệntình trạnglâm sàng, khả năng chức năng và chất lượng cuộc sống, ngăn ngừanhập việnvà giảm tỷ lệ tử vong.
Hình 5: Lưu đồ điều trị BN bị suy tim với EF giảm (HFrEF)
Lưu đồ trên được đề nghị bởi ESC 2016 qua đó chúng ta ghi nhận một cách khái quát chế độ điều trị bằng thuốc BN bị HFrEF: Các thuốc đối kháng thần kinh-thể dịch (UCMC, UCTT và ức chế b) đã được chứng minh cải thiện sống còn ở những BN với HFrEF và được khuyến cáo để điều trị mọi bệnh nhân HFrEF, trừ khi có chống chỉ định hoặc không dung nạp. Một hợp chất mới (LCZ696) kết hợp một UCTT (valsartan) và một ức chế neprilysin (NEP) (sacubitril) gần đây đã được chứng minh là tốt hơn UCMC (enalapril) trong việc làm giảm tử vong và nhập viện vì suy tim trong TNLS với tiêu chí nhận/loại nghiêm ngặt. Do đó Sacubitril/valsartan được khuyến cáo thay thế UCMC ở bệnh nhân HFrEF, người vẫn còn triệu chứng mặc dù đã điều trị tối ưu. UCTT đã không được chứng minh một cách nhất quán trong việc làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân HFrEF vì thế sử dụng chúng chỉ được giới hạn cho những BN không dung nạp UCMC hoặc những người đang dùng UCMC nhưng không thể dung nạp được với các thuốc kháng mineralocorticoid. Ivabradine làm giảm nhịp tim ở HFrEF và cũng đã được chứng minh cải thiện kết cục, nên xem xét sử dụng khi thích hợp. Các loại thuốc trên nên được sử dụng kết hợp với thuốc lợi tiểu ở bệnh nhân có triệu chứng và/hoặc có dấu hiệu sung huyết. Việc sử dụng thuốc lợi tiểu nên được điều chỉnh theo tình trạng lâm sàng của BN.
Dưới đây chúng ta cùng xem lại mức khuyến cáo, bằng chứng và cách sử dụng trên lâm sàng hiện nay theo hướng dẫn ESC 2016 cho từng nhóm thuốc:  
Những thuốcđượcchỉ định ở những BN bị suy tim có triệu chứng vớiEFgiảm
1.      UCMC:được khuyến cáo, thêm vào với ức chế b, cho tất cả các BN suy tim với EF giảmcó triệu chứng để giảm nguy cơ suy timnhập viện và tử vong trừ khi có chống chỉ định hoặc không dung nạp(I-A).UCMC cần điều chỉnh tăng dần đến liều tối đa có thể dung nạp được nhằm ức chế thích hợp hệ RAA (Renin-Angiotensin-Aldosterol) trong suy tim.
Bằng chứng:
Bảng 6: Các TNLS chính của UCMC trong suy tim
TNLS
Thuốc
TC nhận vào chính
Theo dõi TB
Kết cục tiên phát
Kết quả khác
CONSENSUS
Enalapril (n = 127) so với giả dược (n = 126)
Suy tim sung huyết, NYHA IV, tim to/XQ
0.5 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân giảm 40% sau 6 tháng (26% vs 44%, P = 0,002) và 31% sau 12 tháng (52% vs 36%, P = 0,001).

SOLVD
Enalapril (n = 1285) so với giả dược (n = 1284).
EF ≤35%; NYHA I-IV (90% NYHA II-III).
3.5 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân giảm 16% (35% so với 40%) (P = 0,004).
Giảm kết hợp tử vong do mọi  nguyên nhân và tỷ lệ nhập viện vì suy tim 26% (P <0,0001).
ATLAS
Lisinopril liều cao (n = 1568) so với liều thấp (n = 1596)
EF ≤30%, NYHA II-IV
3.8 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân (43% so với  45%, P = 0,13).
Xu hướng giảm tử vong tim mạch 10% (P = 0,07).
Giảm kết hợp tử vong do mọi nguyên nhân và tỷ lệ nhập viện vì suy tim 15% (P <0,001).
Sử dụng trên lâm sàng:
Xác định liều khởi trị và liều đích cần đạt?
·         Captopril 6.25mg X 3 lần/ngàyà50mg X 3 lần/ngày
·         Enalapril 2.5mg X 2 lần/ngày à20mg X 2 lần/ngày
·         Lisinopril 2.5-5mg X 1 lần/ngày à20-35mg X 1 lần/ngày
·         Ramipril 2.5mg X 1 lần/ngày à10mg X 1 lần/ngày
·         Trandolapril 0.5mg X 1 lần/ngày à4mg X 1 lần/ngày
Khởi trị liều cao hơn khi BN có kèm THA hoặc hở van mức độ TB-nặng. Khác với trong điều trị THA với liều đích là liều mà HA được kiểm soát, liều đích trong suy tim là liều ức chế hệ RAA tối ưu mà tại đó các TNLS đã chứng minh thuyết phục là cải thiện tiên lượng cho BN. Do đó nhiệm vụ quan trọng của người BS là phối hợp cùng BN phấn đấu tăng dần  đến liều đích hoặc ít ra là đạt đến liều tối đa mà BN có thể dung nạp.
Dùng như thế nào?
Kiểm tra chức năng thận và điện giải
Bắt đầu với liều thấp, gấp đôi liều ≥2 tuần khi điều trị ngoại trú, có thể tăng liều nhanh hơn khi điều trị nội trú (nếu BN dung nạp được) và ở những BN có điều kiện theo dõi sát để đạt đến liều đích trong các TNLS hoặc liều cao nhất BN có thể dung nạp được (phải luôn nhớ rằng có UCMC là luôn tốt hơn không có UCMC)
Kiểm tra lại sinh hóa máu (BUN, creatinin, Kali) 1-2 tuần sau khởi trị và 1-2 tuần sau khi có điều chỉnh liều sau cùng rồi mỗi 4 tháng sau đó.
Giải quyết những vấn đề thường gặp ra sao?
HA thấp: nếu khôngcótriệu chứng,thường không đòi hỏi thay đổi bất kỳ chế độ điều trị nào. Nếu BN có triệu chứng xây xẩm hoặc choáng váng thường cũng sẽ cải thiện theo thời gian, cần xem xét giảm liều hoặc ngưng các thuốc nitrat, ức chế Ca và các thuốc dãn mạch khác nếu được. Nếu BN không có triệu chứng và dấu hiệu của sung huyết phổi, cần xem xét giảm liều lợi tiểu.
Ho: thường gặp ở BN suy tim đặc biệt ở những BN có kèm bệnh lý phổi liên quan thuốc lá, tuy nhiên ho khan không chỉ do UCMC mà còn là triệu chứng của sung huyết, phù phổi. Do vậy, cần phải loại trừ tình trạng diễn tiến xấu này trước khi nghĩ ho do UCMC. Ho do UCMC không phải luôn luôn cần ngưng điều trị trừ khi triệu chứng ho quá khó chịu (chỉ ngưng khi ngủ) và phải có bằng chứng ho do UCMC (ho cải thiện sau khi ngưng UCMC và tái phát sau khi cho lại UCMC) trong trường hợp này, UCTT được khuyến cáo.
Chức năng thận diễn tiến xấu và tăng kali máu: tăng BUN, creatinin và kali máu là tác dụng bản chất của thuốc UCMC (hoặc UCTT). Nếu tăng nhẹ không triệu chứng (creatinin tăng ≤50% giá trị nền trước đó, kali ≤5.5 mmol/l) là chấp nhận được. Nếu tăng vượt quá mức giới hạn này cần xem xét ngưng những thuốc đi kèm gây độc thận (VD như NSAID..) vàgâytăng kali máu (VD như lợi tiểu giữ kali..) và giảm liều thuốc lợi tiểu nếu không có dấu hiệu sung huyết. Nếu creatinin và kali tăng dai dẳng mặc dù đã điều chỉnh các thuốc đi kèm cần giảm nửa liều UCMC (hoặc UCTT) và kiểm tra lại sinh hóa máu 1-2 tuần sau, nếu vẫn đáp ứng không thích hợp cần hội chẩn chuyên khoa thận. Nếu kali > 5.5 mmol/l hoặc creatinin tăng > 100% giá trị trước đó hoặc > 3.5mg/dl (eGFR < 20ml/p/1.73m2 da), UCMC (hoặc UCTT) nên ngưng và hội chẩn chuyên khoa thận, sinh hóa máu cần theo dõi thường xuyên và nghiêm ngặt hơn cho đến khi kali và reatinin máu về bình ổn.
Tư vấn gì với BN?ŒLợi ích của thuốc tại liều đích (tăng sống còn, cải thiện triệu chứng và khả năng gắng sức, ngăn nhập viện vì suy tim xấu hơn) àphối hợp phấn đấu tăng liều theo liệu trình, Triệu chứng sẽ cải thiện trong vòng vài tuần-vài tháng, ŽTránh dùng thuốc làm xấu suy tim (như NSAID) mà không có ý kiến BS, Báo BS biết những tác dụng phụ chính của thuốc (choáng váng/triệu chứng tụt HA, ho khan, tiểu ít..).
2.      ỨC CHẾ b:được khuyến cáo, thêm vào với UCMC, cho các BN suy tim với EF giảmcó triệu chứngđã ổn địnhđể giảm nguy cơ suy timnhập viện và tử vong(I-A).Không có bằng chứng thuận lợi khởi trị ức chế btrước UCMCvà thuốc này cũng chưa được kiểm định ở những BN suy tim mất bù hoặc có tình trạng sung huyết. Ức chế bnên được bắt đầu tại liều thấp khi lâm sàng BN đã ổn định và tăng thật chậm đến liều tối đa có thể dung nạp. Những BN nhập viện vì suy tim cấp, khởi trị ức chế bthật thận trọng một khi BN đã ổn định và nên khi BN còn điều trị nội trú để được theo dõi sát. Một điều đáng lưu ý là 1 phân tích tổng hợp tất cả ức chế bchính trong các TNLS HFrEF ở phân nhóm BN có rung nhĩ đã không cho thấy lợi ích trên tử vong và nhập viện vì suy tim. Tuy nhiên đây chỉ là phân tích phân nhóm và thuốc này cũng không cho thấy làm tăng nguy cơ trên nhóm BN này, nên ESC 2016 vẫn đề nghị xem xét sử dụng ức chế bđể kiểm soát đáp ứng thất ở BN rung nhĩ kèm suy tim mà không có khuyến cáo riêng cho từng phân nhóm nhịp tim.
Bằng chứng:
Bảng 7: Các TNLS chính của ức chế btrong suy tim
TNLS
Thuốc
TC nhận vào chính
Theo dõi TB
Kết cục tiên phát
Kết quả khác
COPERNICUS
Carvedilol (n = 1156) so với giả dược (n = 1133).
EF < 25%, NYHA IV
0.9 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân giảm 35% (11% so với 17%) (P <0,001).
Giảm tỷ lệ  kết hợp tử vong do mọi nguyên nhân và nhập viện vì suy tim 24% (P <0,001).
CIBIS-II
Bisoprolol (n = 1327) so với giả dược (n = 1320).
EF ≤35%, NYHA III-IV
1.3 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân giảm 34% (12% so với 17%) (P <0,001)
Giảm tỷ lệ kết hợp tử vong tim mạch và nhập viện do bệnh tim mạch 21% (P <0,001).
MERIT-HF
Metoprolol CR / XL (n = 1991) so với giả dược (n = 2001).
EF ≤40%, NYHA II-IV
1 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân giảm 34% (7% so với 11%) (P <0,001).
Giảm nguy cơ tử vong tim mạch 38% (P <0,001), độ tử  41% (P <0,001) và tử vong do suy tim trầm trọng hơn 49% (P = 0,002).
SENIORS
Nebivolol (n = 1067) so với giả dược (n = 1061).
Tuổi ≥ 70 y, suy tim được khẳng định như là suy tim nhập viện trong 12 tháng gần đây và / hoặc EF ≤35% trong 6 tháng gần đây.
1.8 năm
Giảm tần suất kết hợp tử vong do mọi nguyên nhân và nhập viện do nguyên nhân tim mạch 14% (31% so với 35%, P = 0,04).

Sử dụng trên lâm sàng:
Xác định liều khởi trị và liều đích cần đạt?
·         Bisoprolol: 1.25mg X 1 lần/ngàyà10mg X 1 lần/ngày
·         Carvedilol:  3.125mg X 2 lần/ngày à25mg X 2 lần/ngày
·         Metoprolol succinate (CR/XL): 12.5-25mg X 1 lần/ngày à200mg X 1 lần/ngày
·         Nebivolol 1.25mg X 1 lần/ngày à10mg X 1 lần/ngày
Liều đích trong suy tim là liều ức chế thần kinh-thể dịch tối ưu mà tại đó các TNLS đã chứng minh cải thiện tiên lượng cho BN. Do việc khởi trị cũng như tăng liều có thể làm xấu nhẹ triệu chứng suy tim,  chúng ta nên khởi trị khi tình trạng suy tim ổn định, phối hợp cùng BN để phấn đấu tăng dần liều thật chậm đến liều đích hoặc ít ra là đạt đến liều tối đa mà BN có thể dung nạp. Dùng ức chế bnhằm hướng đến đạt hiệu quả mong muốn là ức chế tối ưu TK-thể dịch trong suy tim mà không làm xấu đi tình trạng huyết động (ức chế co bóp cơ tim và chậm nhịp) của BN. Trong những trường hợp suy tim nặng (ĐK cuối tâm trương thất trái ≥60mm, EF ≤25%) đặc biệt kèm hở van mức độ TB-nặng, việc cho digoxin làm nền trung hòa tác dụng bất lợi trên co bóp cơ tim là phù hợp. Bằng chứng được suy xét trong trường hợp này là có khoảng 30% đến hơn 60% các đối tượng trong những TNLS bản lề đưa ức chế bvào thực hành đã có sử dụng digoxinlàm điều trịnền và phân tích phân nhóm của nghiên cứu DIG cho thấy digoxin cải thiện sống còn trên những BN suy tim nặng với nồng độ digoxin máu 0.5-1ng/ml. Những trường hợp suy tim kèm hở van (van 2 lá, ĐMC) mức độ TB-nặng là những tình trạng suy tim có tăng tải thể tích, trong điều trị nội khoa việc cho ức chế bcũng được xem xét nhằm hướng tới mục đích lâu dài, nhưng tác dụng bất lợi trên huyết động làm chậm nhịp tim của ức chế bcó thể làm trầm trọng thêm tình trạng tăng tải thể tích tâm trương thất trái (nhịp chậm sẽ kéo dài thời kỳ đổ đầy tâm trương), nên tần số < 70 l/p có thể sẽkhông có lợi trong trường hợp này, việc xem xét lại chỉ định và ngừng các thuốc làm chậm nhịp, ức chế co bóp cơ tim dùng kết hợp ( amiodaron, ức chế Ca nhóm non-dihydropyridin..) là cần thiết
Dùng như thế nào?
Bắt đầu với liều thấp khi tình trạng suy tim ổn định (không còn tình trạng quá tải dịch-phù, gan to, tràn dịch MP “suy tim khô”; không còn tình trạng sung huyết phổi-khó thở, ran phổi; ngưng các thuốc tim mạch đường TM > 24-48g) .
Tăng gấp đôi liều không ít hơn khoảng thời gian 2 tuần, thường là 4 tuần (tăng chậm hơn là cần thiết trong một số bệnh nhân), cần giải thích kỹ với BN triệu chứng có thể gặp khi tăng liều nhưng cần hướng đến lợi ích lâu dài của thuốc nhằm có sự phối hợp tốt từ người bệnh.
Mục tiêu là liều đích trong các TNLS, nếu không đạt cần phấn đấu đến liều cao nhất mà BN có thể dung nạp (luôn nhớ rằng: có ức chế b là tốt hơn so với không có ức chế b).
Theo dõi nhịp tim, huyết áp, và tình trạng lâm sàng (triệu chứng và dấu hiệu sung huyết, trọng lượng cơ thể)..
Giải quyết những vấn đề thường gặp ra sao?
Triệu chứng/dấu hiệu suy tim xấu đi (tăng khó thở, mệt mỏi, phù, tăng cân):
Nếu sung huyết, tăng liều thuốc lợi tiểu hoặc giảm nửa liều ức chế b.
Nếu mệt hoặc nhịp tim chậm đáng kể, giảm nửa liều ức chế b; đánh giá lại BN trong 1-2 tuần sau; nếu không được cải thiện, tìm tư vấn chuyên môn.
Nếu tình trạng nặng hơn, ngừng điều trị ức chế b.
Nhịp chậm:
Nếu <50l/p và triệu chứng suy tim nặng, cần giảm nửa liều ức chế b, hoặc nếu triệu chứng nặng hơn, xem xét ngừng ức chế b.
Cần xem xét nhu cầu các thuốc làm chậm nhịp tim khác (VD: digoxin, amiodarone, diltiazem, hoặc verapamil).
Đo ECG để loại trừ block tim.
Huyết áp thấp:
Nếu không có triệu chứng, thường không đòi hỏi bất kỳ sự thay đổi nào trong điều trị.
Nếu có triệu chứng: trường hợp nhẹ (chóng mặt, choáng váng nhẹ, hoặc lẫn lộn và huyết áp thấp, xem xét lại nhu cầu nitrat, ức chế Ca, và các thuốc dãn mạch khác)
giảm/dừng các thuốc này nếu được. Nếu không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của sung huyết, xem xét việc giảm liều thuốc lợi tiểu.
Người bệnh đang điều trị, ngưng ức chế bvà cần dùng lại:
Ngưng <72 giờ và không có dấu hiệu suy tim: dùng lại liều như liều trước ngưng.
Ngưng 72 giờ - 7 ngày và không có dấu hiệu suy tim: dùng lại nửa liều trước khi ngưng.
Ngưng >7 ngày và không có dấu hiệu suy tim: dùng lại liều khởi đầu thấp nhất.
Tư vấn gì với BN?ŒLợi íchmong đợicủa thuốc (tăng sống còn, cải thiện triệu chứng và khả năng gắng sức, ngăn nhập viện vì suy tim xấu hơn) àphối hợp phấn đấu tăng liều theo liệu trình, Triệu chứng sẽ cải thiệnchậm sau khởi trị, thỉnh thoảng 3-6 tháng hoặc dài hơn,triệu chứng có thể xấu hơn thoáng qua khi khởi trị hoặc tăng liều nhưng về lâu dài ức chế btiên lượng tốtŽBáo BS biết những tác dụng phụ chính của thuốc (choáng váng/triệu chứng tụt HA, mệt, khó thở..), không tự ý ngưng ức chế bmà không có ý kiến BS Khi khởi trị hoặc tăng liều thuốccần phát hiện và điều trị sớm tình trạng suy tim xấu hơn, khuyên BN theo dõi cân nặng mỗi ngày, tăng liều thuốc lợi tiểu khi cân nặng tăng dai dẳng > 1.5-2kg/ngày trong > 2 ngày.
3.      THUỐC ĐỐI KHÁNG THỤ THỂ MINARALOCORTICOID(MRA):được khuyến cáo cho BN suy tim với EF giảm, BNvẫn còn triệu chứng mặc dùđãđiều trị với UCMC và ức chế b, nhằm làm giảm nguy cơsuy timnhập viện vàtử vong (I-A).
Bằng chứng:  
Bảng 8: Các TNLS chính của MRA trong suy tim
TNLS
Thuốc
TC nhận vào chính
Theo dõi TB
Kết cục tiên phát
Kết quả khác
RALES
Spironolactone (n = 822) so với giả dược (n = 841).
EF≤35%, NYHA III-IV lúc tuyển mộvà NYHA IV trong 6 tháng gần đây.
2 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân giảm 30% (35% so với 46%) (P <0,001).
Giảm tỷ lệ nhập viện do tim khoảng  35% (P <0,001).
EMPHASIS-HF
Eplerenone (n = 1364) so với giả dược (n = 1373)
NYHA II, EF ≤30% hoặc EF 30-35% với QRS> 130 ms,nhậpviệndotim mạch trong 6 tháng gần đây hay BNP ≥250 pg / mL hoặc NT-proBNP ≥500 pg / mL ở namvà ≥750 pg / mL ở nữ.
1.8 năm
Tỷ lệ kết hợp tử vong tim mạch hoặc nhập viện vì suy timgiảm 37% (18% so với 26%, P <0,001).
Giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân khoảng24% (P = 0,008) và tử vong tim mạch 24% (P = 0,01)
Giảm tỷ lệ nhập viện suy tim 42% (P <0,001).
Sử dụng trên lâm sàng:
Xác định liều khởi trị và liều đích cần đạt?
·         Eplerenon: 25mg X 1 lần/ngàyà50mg X 1 lần/ngày
·         Spironolatone: 25mg X 1 lần/ngàyà50mg X 1 lần/ngày
Dùng như thế nào?
Kiểm tra chức năng thận và điện giải (đặc biệt là Kali).
Bắt đầu với liều thấp.
Xem xétđiều chỉnhliều lên sau 4-8 tuần.
Kiểm tra sinh hóa máu tại thời điểm1 và 4 tuần sau khi khởi trị/tăng liều và tại thời điểm8 đến 12 tuần; 6, 9, 12 tháng; và mỗi 4 tháng sau đó.
Giải quyết những vấn đề thường gặp ra sao?
Chức năng thận xấu đi/tăng kali máu:
Nếu Kali >5,5 mmol/L hoặc creatinin >221 mmol/L (2,5 mg/dL)/eGFR<30 mL/phút/1,73 m2, giảm nửa liều và theo dõi sinh hóa máu chặt chẽ.
Nếu Kali > 6,0 mmol/L hoặc creatinine > 310 mmol (3,5 mg/dL) eGFR <20 mL/phút/1,73 m2, dừng ngay MRA.Tăng kali máu (> 6,0 mmol/L) không thườnggặp trong TNLSRALES và EMPHASIS-HFnhưngnó phổ biến hơn trongthực hành lâm sàng.
Ngược lại, Kali ở mức bình thường-cao thường được mong muốn ở những BNsuy tim, đặc biệt đang dùng digoxin.
Điều quan trọng là tránhcácthuốctăng  Kali khác (ví dụ như amiloride và triamterene) và các thuốc độc thận (ví dụ NSAID).
Nguy cơ tăng kali máu và rối loạn chức năng thận khi một MRA được choởBNcó dùng cả  UCMC + UCTTcao hơnnhiềukhi MRA thêm vào đơn trịUCMChoặc UCTT. Do đó kết hợpbộ3thuốcUCMC+UCTTvà MRA không được khuyến cáo.
Nữ hóa tuyến vú:
BNnam được điều trị bằng spironolactone có thể phát triển sự khó chịuở vú hoặc nữ hóa tuyến vú, trong trường hợp này các khuyến cáo đề nghị chuyển sang eplerenone.
Tư vấn gì với BN?ŒLợi íchmong đợicủa thuốc (tăng sống còn, cải thiện triệu chứng và khả năng gắng sức, ngăn nhập viện vì suy tim xấu hơn) Triệu chứng sẽ cải thiệnvài tuần-vài tháng sau khởi trị ŽTránh sử dụng NSAID mà không có ý kiến của BS và các thuốc làm tăng kali máu Khi bị tiêu chảy/nôn ói hoặc nhiễm trùng với sốt và ra nhiều mồ hôi sẽ có nguy cơ mất nước và RL điện giải, cần đi khám BS.
Những thuốc điều trị khác được đề nghị ở những BN chọnlọcvới suy timEF giảmcó triệu chứng
1.      THUỐC LỢI TIỂU:đượckhuyến cáo nhằm cải thiện triệu chứng vàkhả năng gắng sứcở những BN có dấu hiệu và/hoặc các triệu chứng củasung huyết (I-B).Thuốc lợi tiểu nên được xem xét để giảm nguy cơ nhập viện vì suy tim ở BN có các dấu hiệu và/hoặc các triệu chứng của sung huyết (IIa-B).
Bằng chứng: hiệu quả của thuốc lợi tiểu trên bệnh suất và tử suất đã không được thực hiện qua các TNLS. Một phân tích trên Cochrane đã chỉ ra rằng ở những BN suy tim mạn tính, lợi tiểu quai và thiazide làm giảm nguy cơ tử vong và suy tim xấu đi so với giả dược, và lợi tiểu cũng cho thấy cải thiện khả năng gắng sức.
Sử dụng trên lâm sàng:
Lợi tiểu nào và liều dùng thường ngày?
Lợi tiểu quai:
·       Furosemide: Liều khởi đầu 20-40 mg, liều thông thường 40-240 mg
·       Bumetanid: Liều khởi đầu 0,5-1,0 mg, liều thông thường 1-5 mg
·       Torasemide: Liều khởi đầu 5-10 mg, liều thông thường 10-20 mg
Thiazide:
·       Hydrochlorothiazide: Liều khởi đầu 25 mg, liều thông thường 12,5-100 mg
·       Metolazone: Liều khởi đầu 2,5 mg, liều thông thường 2,5-10 mg
Non-thiazide sulfonamide:
·       Indapamide: bắt đầu từ liều 2,5 mg, liều thông thường 2,5-5 mg
Dùng như thế nào?
Kiểm tra chức năng thận và điện giải.
Bắt đầu với liều thấp, liều hiệu quả cho BN đạt giảm trọng lượng cơ thể khoảng 0.75-1,0 kg/ngày.
Điều chỉnh liều theo triệu chứng, dấu hiệu sung huyết, huyết áp và chức năng thận. Sử dụng liều lợi tiểu tối thiểu để duy trì tình trạng bình ổn thể tích (euvolaemia) nghĩa là đạt được 'trọng lượng khô "của BN.
Liều lượng có thể cần điều chỉnh tăng hoặc giảm theo trọng lượng của BN (Hãy nhớ rằng lợi tiểu quá mức nguy hiểm hơn là phù).
Tái kiểm tra sinh hóa máu (BUN, creatinin, Kali) 1-2 tuần sau khởi trị và sau khi tăng liều lợi tiểu.
Bệnh nhân cần được giáo dục để có thể tự điều chỉnh liều thuốc lợi tiểu của chính mình (dựa trên các triệu chứng, dấu hiệu khó thở, phù và thay đổi trọng lượng).
Giải quyết những vấn đề thường gặp ra sao?
Huyết áp thấp:
Nếu không có triệu chứng: giảm liều lợi tiểu nếu không có triệu chứng, dấu hiệu của sung huyết phổi.
Nếu có triệu chứng (choáng váng/xây xẩm): giảm liều nếu không có triệu chứng hoặc dấu hiệu sung huyết. Xem xét lại nhu cầu nitrat, ức chế Ca và các thuốc dãn mạch khác. Nếu các biện pháp này không cải thiện, đánh giá toàn diện BN và khảo sát xa hơn (tiền tải; tại tim bao gồm nhịp, cơ học và co bóp cơ tim; hậu tải).
Giảm kali, magne máu:
Tăng liều UCMC/UCTT.
Thêm MRA, bổ sung kali, magne.
Hạ natri máu:
• Giảm thể tích:
Dừng lợi tiểu thiazide hoặc chuyển sang lợi tiểu quai nếu được.
Giảm liều/ngừng thuốc lợi tiểu quai nếu được.
• Quá tải dịch:
Hạn chế nước vào.
Tăng liều lợi tiểu quai.
Thuốc tăng co bóp đường TM.
Xem xét siêu lọc.
Tăng acid uric máu/gout:
Xem xét dự phòng allopurinol.
Đối với bệnh gout có triệu chứng cần sử dụng colchicine để giảm đau.
Tránh NSAIDs.
Giảm thể tích/mất nước:
Đánh giá tình trạng thể tích, xem xét giảm liều thuốc lợi tiểu.
Kém đáp ứng/kháng lợi tiểu:
Tăng liều thuốc lợi tiểu.
Xem xét chuyển đổi từ furosemide sang bumetanid hoặc torasemide.
Thêm/tăng liều của MRA.
Kết hợp lợi tiểu quai với lợi tiểu thiazide/metolazone
Chuyển dùng lợi tiểu quai hai lần/ngày (hoặc nhiều lần hơn) và uống lúc đói.
Xem xét truyền TM lợi tiểu quai ngắn hạn.
Xem xét siêu lọc.
Suy thận (tăng BUN, creatinin):
Kiểm tra tình trạng mất nước/giảm thể tích.
Loại trừ việc sử dụng các thuốc độc thận (VD: NSAIDs, trimethoprim).
Ngừng MRA.
Nếu đang sử dụng đồng thời lợi tiểu quai và lợi tiểu thiazide, ngưng thuốc lợi tiểu thiazide.
Xem xét giảm liều UCMC/UCTT.
Xem xét siêu lọc.
Tư vấn gì với BN?ŒLợi íchmong đợicủa thuốc (giảm khó thở và phù, triệu chứng cải thiện nhanh chóng thường trong vòng vài ngày sau khởi trị) Báo BS những tác dụng phụ chính: khát, xây xẩm/choáng váng tụt HAŽTránh sử dụng NSAID mà không có ý kiến của BS vì có thể gây kháng lợi tiểu và suy thậnHướng dẫn  điều chỉnh liều thuốc dựa vào triệu chứng, dấu hiệu suy tim (phù, khó thở..) và thay đổi cân nặng.
2.      SACUBITRIL/VALSARTAN: được khuyến cáo như là 1 điều trịthay thế cho UCMCđể làmgiảmhơn nữanguy cơ suy tim nhập viện và tử vong ở những BN suy tim với EF giảmngoại trú, nhữngngười vẫn còn triệu chứng mặc dù điều trị tối ưu với UCMC, ức chếb, và đối kháng thụ thể mineralocorticoide (MRA) (I-B).
Hợp chất sacubitril/valsartan tác động hiệp đồng thông qua ức chế neprilysin làm cho sự thoái gián NP, bradykinin và peptide khác bị chậm lại. ANP và BNP lưu hành cao gây tác dụng sinh lý thông qua liên kết với các thụ thể NP làm tăng sản xuất cGMP, do đó làm tăng cường lợi tiểu, lợi niệu Na, thư giãn cơ tim và chống tái cấu trúc. ANP và BNP cũng ức chế tiết renin và aldosteron. Ức chế chọn lọc AT1 làm giảm sự co mạch, giữ muối nước và phì đại cơ tim.
Bằng chứng:
Bảng 9: TNLS PARADIGM-HF
TNLS
Thuốc
TC nhận vào chính
Theo dõi TB
Kết cục tiên phát
Kết quả khác
PARADIGM-HF
Sacubitril/valsartan (n = 4187) so với enalapril (n = 4212).
NYHA II-IV, EF ≤40% (sửa đổi để EF ≤35%), BNP ≥150 pg/mL hoặc NT-proBNP ≥600 pg/ml, hoặc nếu suy tim nhập viện trong vòng 12 tháng gần đây BNP ≥100 pg/mL hoặc NT -proBNP ≥400 pg/ml.
2.3 năm
Gộp tử vong do nguyên nhân tim mạch hoặc nhập viện lần đầu vì suy tim giảm 20% (22% so với 27%, P <0,001).
Giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân 16% (P <0,001) và tỷ lệ tử vong tim mạch 20% (P <0,001).
Giảm tỷ lệ nhập viện suy tim 21% (P <0,001).
Sử dụng trên lâm sàng:
Nghiên cứu PARADIGM-HF chứng minh sacubitril/valsartan (ban đầu dùng 100mg X 2lần/ngày sau đó tăng đến liều đích 200mg (97/103) X 2lần/ngày) trội hơn thuốc UCMC (enalapril 10mg X 2lần/ngày) đã cho chúng ta thấy cách dùng và liều đích cần đạt của thuốc mới này. Hạ huyết áp có triệu chứng thường gặp hơn trong nhóm sacubitril/valsartan (đặc biệt BN ≥75 tuổi, có 18% ở nhóm sacubitril/valsartan so với 12% ở nhóm enalapril), mặc dù không làm tăng tỷ lệ ngưng thuốc. một tỷ lệ 0,4% của phù mạch ở sacubitril / nhóm valsartan so với 0,2% ở nhóm enalapril). Ngoài ra tỷ lệ phù mạch trong nghiên cứu này tương đối nhỏ và để giảm nguy cơ phù mạch, các thuốc UCMC nên được ngưng ít nhất 36 giờ trước khi bắt đầu sacubitril/valsartan. Kết hợp điều trị UCMC (hoặc UCTT) với sacubitril/valsartan bị chống chỉ định. Hiện tại loại thuốc kết hợp này chưa có mặt tại thị trường Việt Nam.
3.      IVABRADINE:nênđược xem xét để giảm nguy cơ nhập viện vì suy tim và tử vong tim mạch ở những BN suy timcó triệu chứng EF ≤35%, nhịp xoangvà tần số khinghỉ  ≥70 l/pmặc dù điều trị với liều dựa trên bằng chứng của ức chế b(hoặc liều dung nạp tối đa), UCMC(hoặc UCTT), và MRA (hoặc UCTT)(IIa-B).Ivabradine nênđược xem xét để giảm nguy cơ nhập viện vì suy tim và tử vong tim mạch ở những BN suy timcó triệu chứng EF ≤35%, nhịp xoangvà tần số khinghỉ  ≥70 l/p không dung nạp hoặc có chống chỉ định với ức chế b. BN cũng nên dùng UCMC (hoặc UCTT) và MRA (hoặc UCTT) (IIa-C).
Bằng chứng:
Bảng 10: TNLS SHIFT
TNLS
Thuốc
TC nhận vào chính
Theo dõi TB
Kết cục tiên phát
Kết quả khác
SHIFT
Ivabradine (n = 3268) so với giả dược (n = 3290).
EF ≤35%, NYHA II-IV, HF nhập viện trong 12 tháng gần đây, nhịp xoang, tần số ≥70 l/p.
1.9 năm
Tần suất gộp tử vong tim mạch hoặc nhập viện vì suy tim giảm 18% (24% so với 29%, P <0,001).
Giảm nhập viện vì suy tim 26% (P <0,001).
Giảm tử vong liên quan đến suy tim 26% (P = 0,01).
Sử dụng trên lâm sàng:
Xác định liều khởi trị và liều đích cần đạt?
Ivabradine: khởi đầu 5mg X 2lần/ngàyàliều đích 7.5mg X 2lần/ngày
Dùng như thế nào?
Bắt đầu với liều thấp (5 mg X 2lần/ngày), những BN ≥ 75 tuổi, khởi trị liều thấp hơn: 2,5 mg X 2lần/ngày.
Liều hàng ngày có thể tăng lên đến liều đích 7,5 mg X 2lần/ngày.
Giảm liều có thể đến 2,5 mg X 2lần/ngày hay dừng lại tùy thuộc vào nhịp tim lúc nghỉ của BN. Tăng gấp đôi liều không ít hơn khoảng thời gian 2 tuần (tốc độ chậm hơn có thể cần thiết trong một số BN). Mục tiêu là đạt liều đích, hoặc liều tối đa có thể dung nạp được dựa trên nhịp tim nghỉ của BN. Nếu nhịp tim khi nghỉ là giữa 50 và 60 bpm, liều hiện tại nên được duy trì.
Theo dõi nhịp tim, huyết áp, và tình trạng lâm sàng.
Giải quyết những vấn đề thường gặp ra sao?
Nhịp timkhinghỉ dai dẳng <50 l/phoặc nếu các triệu chứng nhịp chậm xảy ra:
Giảm hoặc ngừng điều trị
Xem lại nhu cầucho thuốc giảm tần số tim khác hoặc thuốc tác độngvào quá trình chuyển hóa Ivabradinetại gan.
Đo lại ECG để loại trừcácRLnhịp khác ngoài nhịp chậm xoang.
Tầm soát nguyên nhân thứ phátcủa RL nhịp chậm(VD: RLchức năng tuyến giáp).
Nếu BNphát triểnrung nhĩdai dẳng/liên tục trong thời gian điều trị với Ivabradine, thuốc nên được dừng lại.
Những hiện tượng về thị giác thường thoáng qua và biến mất trong vài tháng đầu điều trị ivbradine và không đi kèm với những rối loạn chức năng võng mạc nghiêm trọng. Tuy nhiên nếu điều này gây khó chịu cho BN xem xét ngừng ivabradine.
Trong trường hợp không dung nạp lactose hoặc galactose (thành phần có trongviên thuốc Ivabradine), nếu có triệu chứngcó thể cần phải dừng thuốc.
Tư vấn gì với BN?ŒLợi íchmong đợicủa thuốc (ngăn nhập viện vì suy tim xấu hơn, giảm nguy cơ tử vong tim mạch) Hướng dẫn BN các triệu chứng do nhịp tim chậm: khó thở, mệt mỏi, ngất, chóng mặt; tác dụng phụ khác: hiện tượng điểm sáng (luminous visual phenomena).ŽĐể phát hiện nhịp chậm tiềm tàng, cần hướng dẫn BN đo và ghi lại mạch đều đặn.
4.      UCTT: được khuyến cáo để giảm nguy cơ nhập viện vì suy tim và tử vong tim mạch ở những BN có triệu chứng và không dung nạp với UCMC (BN cũng đã điều trị với ức chế bvà MRA) (I-B). UCTT có thể được xem xét để giảm nguy cơ nhập viện vì suy timvà tử vong ở những BN có triệu chứng mặc dù điều trị với ức chế bvàkhông thể dung nạp vớiMRA(IIb-C).
Bằng chứng:
Candesartan được chứng minh làm giảm tử vong tim mạch. Valsartan cho thấy ảnh hưởng đến nhập viện vì suy tim (nhưng không phải nhập viện do mọi nguyên nhân) ở những BN với HFrEF nhận UCMC nền.
Sự kết hợp của UCMC+UCTT chỉ nên được giới hạn ở các BN HFrEF có triệu chứng đã nhận ức chế bnhưng không thể dung nạp với MRA, và liệu pháp này được sử dụng phải dưới sự giám sát nghiêm ngặt.
Bảng 11: Các TNLS chính của UCTT trong suy tim
TNLS
Thuốc
TC nhận vào chính
Theo dõi TB
Kết cục tiên phát
CHARM-Added
Candesartan (n = 1276) so với giả dược (n = 1272)
EF ≤40%, NYHA II-IV, điều trị với UCMC
3.4 năm
Giảm tỷ lệ kết hợp tử vong tim mạch, nhập viện vì suy tim 15% (38% so với  42%, P = 0,01).
CHARM-Alternative
Candesartan (n = 1013) so với giả dược (n = 1015).
EF ≤40%, NYHA II-IV, không dung nạp với UCMC
2.8 năm
Giảm tỷ lệ kết hợp tử vong tim mạch, nhập viện vì suy tim 23% (33% so với 40%, p <0,001).
Val-HeFT
Valsartan (n = 2511) so với giả dược (n = 2499).
EF < 40%, NYHA II-IV, điều trị với UCMC, ĐK lòng thất trái (LVID) > 2.9cm/diện tích da
1.9 năm
Tử vong do mọi nguyên nhân tương tự nhau ở cả hai nhóm (19,7% so với 19,4%, P = 0,80).
Giảm kết cục tiên phát gộp của tử vong mọi nguyên nhân, ngừng tim cần HSTP, HF nhập viện, hoặc thuốc tăng co bóp cơ tim hoặc thuốc giãn mạch cho ≥4 giờ không nhập viện 13% (29% so với 32%, P = 0,009).
HEAAL
losartan 150 mg (n = 1927) so với losartan 50 mg (in = 1919)
NYHA II-IV, EF ≤40%
4.7 năm
Giảm tử vong và nhập viện vì suy tim ([HR] 0.90, 95% CI 0,82-0,99; p = 0,027)
Sử dụng trên lâm sàng
Xác định liều khởi trị và liều đích cần đạt?
Candesartan: khởi đầu 4-8mg X 1lần/ngàyàliều đích 32mg X 1lần/ngày
Valsartan: khởi đầu 20-40mg X 2lần/ngàyàliều đích 160mg X 2lần/ngày
Losartan: khởi đầu 25-50 mg X 1lần/ngàyàliều đích 50-150mg X 1lần/ngày
(Khởi trị liều cao hơn khi BN có kèm THA hoặc hở van mức độ TB-nặng)
Dùng như thế nào?
Trước khi điều trị bằng UCTT, phải kiểm tra CN thận và ion đồ máu.
Khởi đầu liều thấp và tăng dần. Đánh giá lại CN thận và ion đồ sau 1-2 tuần điều trị.
Sau khi đạt liều đích của UCTT, phải đánh giá lại CN thận và ion đồ sau 1 tháng, 3 tháng và sau đó là mỗi 6 tháng.
Xem xét tăng liều sau 2-4 tuần điều trị. Không tăng liều khi CN thận xấu đi hay tăng kali máu. Kiểm tra lại CN thận sau 1 và 4 tuần sau khi tăng liều
Giải quyết những vấn đề thường gặp ra sao?(tương tự UCMC ngoại trừ triệu chứng ho)
5.      HYDRALAZINE+ISOSORBIDE DINITRATE: nên được xem xét để làm giảm nguy cơ tử vong hoặc nhập viện vì suy tim trên quần thể da đen NYHA II-IV với EF ≤35% hoặc EF < 45% kèm dãn thất trái mặc dù đã điều trị với UCMC, ức chế bvà MRA (IIa-B). Hydralazine kết hợp cùng isosorbide dinitrate có thể được xem xét để làm giảm nguy cơ tử vong ở những BN bị HFrEF có triệu chứng mà không dung nạp với UCMC hoặc UCTT (IIb-B).
Bằng chứng:
Một TNLS được tiến hành ở bệnh nhân da đen gốc Phi cho thấy rằng việc bổ sung hydralazine+isosorbide dinitrate với điều trị thông thường (UCMC, ức chế b và MRA)làmgiảm tử vong và nhập viện vì suy tim ở BN HFrEF với NYHA III-IV. Kết quả nghiên cứu này khó áp dụng cho BN chủng tộc khác. Ngoài ra, kết quả từ nghiên cứu trên cựu chiến binh (Veterans Administration Cooperative Study) cho thấy hydralazine+isosorbide dinitrate có thể được xem xét để làm giảm tỷ lệ tử vong ở những BN bị HFrEF có triệu chứng, đang điều trị với digoxin và lợi tiểu, người không thể dung nạp UCMC/UCTT (hoặc do chống chỉ định).
Sử dụng trên lâm sàng:
Liều khởi đầu: hydralazin 25-50 mg và ISDN 20-30mg x 3 lần/ ngày (hoặc dùng viên kết hợp cố định liều 37.5mg hydralazin/20mg ISDN X 3lần/ngày)
Xét tăng liều mỗi 2-4 tuần. Không tăng liều nếu có tụt HA có triệu chứng.
Nếu người bệnh dung nạp, tăng liều để đạt liều đích: hydralazin là 300 mg và ISDN là 120 mg/ngày, chia liều trong ngày (hoặc dùng viên kết hợp cố định liều 75mg hydralazin/40mg ISDN X 3lần/ngày)
Chú ý: có thể dung Isosorbide mononitrate thay ISDN để cải thiện biến chứng.
6.      DIGOXIN: được xem xét ở những BN suy tim nhịp xoang có triệu chứng, mặc dù đã điều trị với UCMC (hoặc UCTT), ức chế bvà MRA để làm giảm nguy cơ nhập viện (ở cả nhập viện vì suy tim và nhập viện do mọi nguyên nhân) (IIb-B).
Bằng chứng:
Bảng 12: Các TNLS chính của Digoxin trong suy tim
ĐẶC ĐIỂM NC
PROVED-1993
RADIANCE-1993
DIG-1997
Thiết kế
RCT
RCT
RCT
Cỡ mẫu
88
178
7788
Đối tượng
NX, NYHA II, III và
EF £35% và
LV ≥ 60mm (34mm/m2da)
NX, NYHA II, III và
EF £35% và
LV ≥ 60mm (34mm/m2da)
NX, NYHA I-IV
EF £45%(Main trial)
EF >45%(Ancillary trial)
LV ≥ 60mm, CTI/XQ> 0.55
Can thiệp và so sánh
Ngưng Digoxin / BN dùng D+ LT so với nhóm dùng tiếp 2 thuốc trên
Ngưng Digoxin / BN dùng D+LT+UCMC so với nhóm dùng tiếp 3 thuốc trên
Thêm Digoxin / BN dùng LT+UCMC so với nhóm dùng giả dược (giả dược +LT+UCMC)


Liều và nồng độ Digoxin
0.125-0.5mg/ngày TB 0.375mg/ngày,
Duy trìnồng độ 0.9-2 ng/ml
0.125-0.5mg/ngày TB 0.375mg/ngày,
Duy trìnồng độ 0.9-2 ng/ml
0.125-0.5mg/ngày
TB 0.25mg/ngày
Nồng độ 0.76ng/ml(0.125mg/ngày)
0.89ng/ml(0.25mg/ngày)
0.88ng/ml(0.35-0.5mg/ngày)
Kết quả
Ngưng Digoxin làm xấu tình trạng suy tim mạn, gắng sức và EF
Ngưng Digoxin làm xấu tình trạng suy tim mạn, gắng sức  và EF
Không giảm tử vong toàn bộ, giảm tỷ lệ nhập viện toàn bộ và tỷ lệ nhập viện do suy tim xấu hơn
Hiện tại, chúng ta vẫn chưa có thêm những bằng chứng từ các TNLS (có mục tiêu tiên phát là tử suất Digoxin so với giả dược) sau DIG trial 1997. Bên cạnh đó,Digoxin (và các dẫn xuất) là thuốc tăng sức co bóp cơ tim duy nhất, không làm tăng nhịpcó thể sử dụng được bằng đường uống, nên việc nhìn lại toàn cảnh và phân tích TNLS DIG (bao gồm cả phân tích phân nhóm, tuy bằng chứng này kém thuyết phục hơn) sẽ giúp chúng tachọn lựa BN thích hợp và chọn chiến lược điều trị nhằm hướng đến hiệu quảcó lợi nhất từ nghiên cứu. TNLS DIG đã giúp chúng ta nhận ra rằng Digoxin có 2 hiệu quả, tương ứng với 2 nhóm đối tượng:
a.       Cải thiện triệu chứng và tỷ lệ nhập viện chungtrên các đối tượng tham gia nghiên cứu (suy tim tâm thu: có triệu chứng và EF £45% và LV ≥ 60mm (LV ≥ 34mm/cm2; và là 37mm/cmda trong NC Val-HeHF); suy tim chức năng tâm thu bảo tồn (EF > 45%) và có triệu chứng). Và cần lưu ý là NC này đã loại những BN thuộc tiêu chuẩn loại trừ: HC mạch vành cấp trong vòng 4 tuần, viêm cơ tim cấp, tâm phế mạn, suy thận với creatinin> 3mg%, K+<3 mmol/l là những BN chúng ta cũng thường gặp trên lâm sàng bên cạnh những CCĐ chung của Digoxin
b.    Có thể cải thiện tử vong ở BN có suy tim nặng(qua phân tích phân nhóm)bao gồm: EF <25%, chỉ số tim-ngực/ XQ > 0.55, NYHA III-IV. Như vậy đối tượng này có thể sẽ có lợi nhiều hơn từ điều trị Digoxin với điều kiện liều và nồng độ thuốc đạt được hợp lý để tránh tăng tử vong từ RLN
Hiệu quả của digoxin trên BN bị HFrEF và rung nhĩ đã không được nghiên cứu trong các RCT, và các nghiên cứu gần đây đã cho thấy tiềm năng nguy cơ cao hơn với các biến cố (tử vong và nhập viện vì suy tim) ở BN rung nhĩ đang điều trị digoxin. Tuy nhiên, điều này vẫn còn gây tranh cãi, và một phân tích gộp gần đây dựa trên cơ sở các nghiên cứu không phải RCT đã kết luận rằng digoxin không có tác dụng có hại trên tử vong ở bệnh nhân có rung nhĩ và suy tim đồng thời và hầu hết trong số họ là HFrEF
Sử dụng trên lâm sàng:
Digoxin có cửa sổ điều trị hẹp do đó dễ bị ngộ độc, tình trạng này liên quan cả 2 yếu tố là nồng độ thuốc/máu và tính nhạy cảm tại mô đích-mô cơ tim (VD: suy kiệt, RL toan kiềm, giảm K) do đó cần theo dõi và điều chỉnh tốt RL toan-kiềm và Kali.
Có 2 chiến lược thường dùng trên lâm sàng là:
·         Liều tải: là liều cần đưa vào cơ thể để đạt nồng độ điều trị, thường dùng ở BN suy tim kèm rung nhĩ nhanh. RN rất nhanh ≥ 140l/p kèm suy tim nên dùng liều tải đường TM, nếu RN 100-< 140 l/p và tình trạng suy tim không nặng có thể dùng liều tải đường TM hoặc đường uống. Liều TM và thời điểm dùng: G0 (0.25mg)-G2 (0.25mg)-G12 (0.25 mg) à đạt 0.75-1mg / 24 giờ đầu
·         Liều duy trì: là liều cần bổ sung cho lượng Digoxin thải ra cơ thể mỗi ngày nhằm duy trì nồng độ điều trị đã đạt được. Thường dùng liều thấp 0.125 mg/ngày có khoảng trống (nghỉ 1-2 ngày/tuần, nghỉ cách ngày hoặc dùng 2 lần/ tuần) hay không có khoảng trống. Điều này cần cân nhắc trên nhiều yếu tố (tuổi, thể trọng, bệnh tim nền, chức năng gan thận, dùng thuốc tương tác..).
YTNC dễ ngộ độc: lớn tuổi > 70, suy thận, gầy, dùng thuốc có tương tác (tăng nồng độ hoặc tăng nhạy cảm với Digoxin), đáp ứng-liều nhạy với Digoxin (độ giảm tần số nhanh > 30% so với nhịp ban đầu chỉ với 1-2 liều Digoxin ban đầu)àdùng liều duy trì 0.125 mg/ngày, mở cửa sổ 2 ngày / tuần hoặc dùng cách ngày hoặc dùng liều 0.0625 mg/ngày.
BN có nhiều YTNC dễ ngộ độc:có thể dùngliều0.0625 mg/cách ngày, thường phải theo dõi sát hơn, sau 3-4 ngày nên đo lại ECG, điện giải đồ và xem xét định lượng nồng độ Digoxin/máu (nếu được) để điều chỉnh thuốc duy trì nồng độ/máu 0.5-0.9 ng/ml.
Đo lường nồng độ Digoxin (thường phải lấy mẫu máu ít nhất sau 8 giờ của liều Digoxin trước đó để tránh pha phân phối thuốc)
Các điều trị (hoặcphốihợp điều trị) không được khuyến cáo, có thể gây hại ở những BNsuy tim EF giảm có triệu chứng (NYHAII-IV).
-          Statin: mặc dù làm giảm tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh ở những BN có bệnh lý xơ vữa, nhưng nó không có hiệu quả trong việc cải thiện tiên lượng ở BN HFrEF. Hầu hết các nghiên về statin đã loại trừ BN suy tim (vì nó không chắc chắn có lợi). Hai TNLS chính statin ở BN suy tim mạn tính đã không chứng minh bất kỳ bằng chứng có lợi nào. Vì vậy, chưa đủ bằng chứng cho việc khởi trị statin ở hầu hết các bệnh nhân suy tim mạn tính. Tuy nhiên những BN đang điều trị RLLP hoặc BMV thì statin vẫn tiếp tục.
-          Kháng đông và kháng kết tập tiểu cầu: không có bằng chứng thuốc chống đông đường uống làm giảm tử suất/bệnh suất so với giả dược hoặc aspirin. Các TNLS về thuốc chống đông đường uống không phải vitamin K (NOACs) ở những BN với HFrEF hiện đang tiếp diễn. Không có bằng chứng về lợi ích của thuốc kháng tiểu cầu ở những BN suy tim không kèm BMV, trong khi đó lại làm gia tăng đáng kể xuất huyết tiêu hóa, đặc biệt là ở người già.
-          Diltiazem hoặc verapamil không được khuyến cáo ở những BN suy tim với EF giảm, vì chúng làm tăng nguy cơcủa tình trạng suy tim xấu hơnvà suy tim phảinhập viện(III-C). Có nhiều loại thuốc ức chế Ca dihydropyridine nhưng chúng lại làm tăng trương lực giao cảm và gây tác động xấu trong suy tim. Hiện tại chỉ có bằng chứng về an toàn đối với amlodipine và felodipin ở bệnh nhân HFpEF, và có thể được sử dụng chỉ khi có chỉ định bắt buộc (VD khống chế HA).
-          Việc bổ sung UCTT(hoặc 1chất ức chế renin)thêm vàotrongsự kết hợp của UCMCvà MRA không được khuyến cáo ở BN suy tim,vì tăng nguy cơ rối loạn chức năng thận và tăng kali máu(III-C).
-          Thiazolidinediones (glitazones) không được khuyến cáo ở những BN suy tim, vì chúng làm tăng nguy cơ suy tim xấu hơn và nhập viện vì suy tim (III-A).
-          NSAID hoặc ức chế COX-2 không được khuyến cáo ở những BN suy tim, vì chúng làm tăng nguy cơ suy tim xấu hơn và nhập viện vì suy tim (III-B).