Nhồi máu cơ tim Type 2: Sinh bệnh và những lưu ý trong chẩn đoán
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhồi máu cơ tim (NMCT) là nguyên nhân chính gây tử vong và tàn phế trên
toàn thế giới. Năm 2012, định nghĩa toàn cầu lần 3 về NMCTvới sự tham
gia của hội tim Châu Âu (ESC), trường môn tim mạch Mỹ (ACCF), hội tim Mỹ
(AHA), liên đoàn tim thế giới (WHF) trong đó nhấn mạnh những điều kiện
khác nhau có thể dẫn đến NMCT, tái khẳng định phân loạiNMCT (bao gồm 5
type) và cập nhật dữ liệu mới từ các dấu ấn sinh học(1).
BS Nguyễn Thanh Hiền
BS Trần Lệ Diễm Thúy
BS Thượng Thanh Phương
BS Dương Hiệp Hồ
Những điều này đã được chấp nhận bởi tổ chức y tế thế giới (WHO), cộng
đồng y khoa và đưa vào áp dụng trong thực hành lâm sàng thường ngày.
NMCT type 2 được phân loại với cơ chế bên dưới là thứ phát từ thiếu máu
cục bộ (TMCB) do tăng nhu cầu O2 và/hay giảm cung cấp O2
cơ tim. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do co thắt mạch vành
(MV), thuyên tắc MV (coronary embolism), thiếu máu, loạn nhịp tim, tăng
hay hạ HA...(2)Tỷ lệ NMCT type 2 chính xác vẫn chưa được xác
định trên dân số chung và thay đổi tùy theo nghiên cứu, ước tính nó
khoảng4% ở BN bị NMCT tái phát và khoảng 2-10% /NMCT chung(3).
Tử vong của bệnh còn cao do bệnh lý nền nặng đặc biệt khi nhận định
chưa phù hợp là NMCT type 1 dẫn đến việcbắt đầu những điều trị có thể
gây hại thêm cho bệnh nhân vốn dĩsẵn có nhiều bệnh nặng kết hợp.Trên lâm
sàng, chẩn đoán NMCT chúng ta thường gặp 5 nhóm sau: ŒBN bịNMCT có
huyết động bình thường hoặc RL huyết động nhẹ, BN chẩn đoán NMCT có RL
huyết động nặng hơn (Killip III- IV) có/không kèm SHH cần thở máy, ŽBN
được cấp cứu hồi sức ngừng tuần hoàn-hô hấp và được theo dõi do
BMV/NMCT, BN vào khoa cùng lúc có ≥ 2 chẩn đoántrong đó có NMCT, BN
nhập viện vì nguyên nhân khác sau đó phát hiện thêm chẩn đoán NMCT. Ba
nhóm BN đầu thường dễ chẩn đoán và việc điều trị theo đúng khuyến cáo
hiện hành. Hai nhóm BN sau thường được thảo luận nhiều trong các cuộc
hội chẩn và cũng là 1 thách thức ngay cả cho BS tim mạch. Như vậy đứng trước BN bệnh cảnh toàn thân nặng có kết quả xét nghiệm troponin tăng,đặc biệt trong thời đại troponin siêu nhạy (hs-troponin), người BS cần phải trả lời 2 câu hỏi: 1)Có NMCT không? 2) Nếu là NMCT thì đây là NMCT type 1
(có sự thành lập huyết khối/mảng xơ vữa không ổn địnhtrong lòng MV àcó
vai trò của kháng đông, ức chế tiểu cầu kép và tái thông mạch...) hay NMCT type 2
(không liên quan đến hình thành huyết khối mới mà do mất cân bằng cán
cân cung cầu gây nên từ bệnh lý nền của BN àđiều trị bệnh nền là chủ
yếu). Để trả lời các câu hỏi này, bài viết dưới đây chúng ta cùng làm rõ
3 vấn đề sau:
1. Cơ chế làm tăng troponin, đặc biệt trong một số tình
huống lâm sàng thường gặp là gì? Các thế hệ xét nghiệm troponin giúp ích
ra sao trong chẩn đoán NMCT?
2. Ranh giới giữa tổn thương cơ tim không do TMCB kèm hoại tử và NMCT là gì?
3. Ranh giới giữa NMCT type 1 và type 2 là gì?
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ chế làm tăng troponin, đặc biệt trong
một số tình huống lâm sàng thường gặp là gì? Các thế hệ xét nghiệm
troponin giúp ích ra sao trong chẩn đoán NMCT?
1.1. Cơ chế tăng troponin
Các dấu ấn sinh học để phát hiện tổn thương cơ tim được ưa chuộng là
troponin, nóbao gồm ba tiểu đơn vị điều hòa tiến trình co bóp qua trung
gian Ca2+. Các tiểu đơn vị này gồm troponin C gắn kết với Ca2+, troponin
I (TnI) gắn kết với actin ức chế sự tương tác actin-myosin và troponin T
(TnT) gắn kết với tropomyosin qua đó gắn phức hợp troponin lên vi sợi
cơ (Hình1). Mặc dù hầu hết TnT được kết hợp trong phức hợp nhưng có
khoảng 6% đến 8% TnTtự do hòa tan trong bào tương và riêng TnI thì có
khoảng 2% đến 3% được tìm thấy trong bào tương. Sau khi tế bào cơ tim bị
tổn thương, phóng thích ban đầu troponin là từ bào tương và tiếp sau đó
là phóng thích từ các cấu trúc (phức hợp gắn kết vi sợi cơ-myofilament
bound) (Hình 1). Các gen mã hóa TnT và TnI là khác nhau cho cơ tim và cơ
vân cho phép sản sinh ra các kháng thể chuyên biệtcho riêng cơ tim
(cTnT và cTnI) và giúp có thể định lượng chúng(2).

Hình 1: cơ chế phân tử giải thích tăng tropinin trong tuần hoàn(2)
Từ hình 1 chúng ta nhận thấy: phóng thích dấu ấn sinh học vào tuần hoàn
sẽ bắt đầu với thiếu máu cục bộ kéo dài, nặng hơn là tình trạng hoại tử
và dẫn đến mất sự toàn vẹn của màng tế bào cơ tim. Sau khi màng tế bào
cơ tim bị phá vỡ, các dấu ấn sinh học tự dosẵn có trongbào tương
(myoglobin, troponin...)được phóng thích trước tiên.Myoglobin, troponin
và đồng phânCK được phóng thíchngay tức khắc và nồng độ trong máu tăng
lên một cách nhanh chóng vượt giới hạntrên của điểm cắt. Sự phóng thích
các dấu ấn sinh học nhiều hơn tiếp sau đó là từ phá vỡ các vi sợi cơ
(myofilaments) và có thể tiếp tục trong vài ngày tiếp theo (mũi tên tách
ra ba đầu). Các dấu ấn sinh học này bắt đầu khuếch tán vào các khoảng
gian bàorồi vào vi tuần hoàn và hệ bạch huyết quanh khu vực của vùng
nhồi máu. Nồng độ các chất này trong hệ tuần hoàn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, bao gồm vị trí tổn thương trong nội bào, trọng lượng phân tử,
lưu lượng máu, dòng chảy bạch huyết tại chỗ, và tốc độ thải trừ khỏi
máu. Mức độ troponin có thể tăng lên khoảng 20 đến 50 lần giới hạn trên
của quần thể tham khảo (bách phân vị 99th) ở những bệnh nhân có NMCT cấp
"cổ điển" và hoại tử cơ tim đủ lớn. Hiện tại chúng ta có thể chẩn đoán
tình trạng vi nhồi máu (microinfarction) bằng các xét nghiệm có độnhạy
cao hơn ngay cả khi chỉcó tăng nhẹ troponin trên mức giới hạn trên,
trong khi CK-MB và xét nghiệm troponin từ thế hệ cũ có thể vẫn còn dưới
mức giới hạn quyết định cóNMCT(2).
Bên cạnh tình trạng TMCB cơ tim, có rất nhiều nguyên nhân khác gây tăng troponin trong thực lâm sàng (bảng 1)(1).

Cơ chế chính có thể giải thích cho các tình trạng này(4):
· Do hoại tử tế bào cơ tim: do thiếu máu, nhồi máu, viêm, thâm nhiễm, chấn thương, nhiễm độc, do nguyên nhân chuyển hoá.
· Do chết chương trình: các tế bào cơ tim bị chết chương trình do hoạt hoá men caspase.
· Do các tế bào phóng thích các chất ly giải troponin từ sự thoái hoá các chất trong cơ thể.
· Do sự tăng tính thấm của màng tế bào: tổn thương màng tế bào cơ tim và làm thay đổi tính thấm màng tế bào.
1.2. Cơ chế tăng troponin trong các tình huống lâm sàngđặc biệt(1, 5)
Có 5 nguyên nhân gây tăng troponin rất cao (Very high troponin levels):
NMCT, viêm cơ tim, bệnh cơ tim do stress (Takotsubo –ít gặp), shock
phản vệ (hiếm) và bệnh thận mạn. Ba nguyên nhân đầu thường có động học
troponin tăng rồi giảm. Hai nguyên nhân sau xu hướng ít có động học.Nồng
độ troponin càng cao, khả năng bị NMCT hoặc viêm cơ tim càng cao. Tuy
nhiên hiện vẫn chưa có ngưỡng troponin đơn độc nào để phân định các
nguyên nhân này. Định nghĩa toàn cầu lần 3 về NMCT năm 2012 đã đưa rasơ
đồ và đánh giá cho các tình huống lâm sàng có thể gây tổn thương cơ tim
hoặc nhồi máu cơ tim

Hình 2: Các tình huống lâm sàng khác nhau có thể gây tổn thương cơ tim hoặc NMCT(1)
- BN thực hiện các thủ thuật tim mạch:
Bất thường mới ST-T là thường gặp ở BN phẫu thuật tim. Khi sóng Q bệnh
lý mới xuất hiện, NMCT type 1 hoặc type 2 nên xem xét, đặc biệt khi nó
đi kèm với tăng dấu ấn sinh học tim, bất thường vận động vùng mới hay
huyết động không ổn định.Thủ thuật cắt đốt các rối loạn nhịp (ấm hoặc
lạnh) có thể gây tổn thương và hoại tử cơ tim. Sự lan rộng của tổn
thương có thể đánh giá bằng đo lường troponin. Tuy nhiên việc tăng
troponin trong trường hợp này không được gọi (dán nhãn) là NMCT.
Những thủ thuật mới như đặt van ĐMC qua cathether (TAVI) hoặc kẹp van 2
lá (mitral clip) có thể gây tổn thương cơ tim và hoại tử. Cả 2 thủ
thuật đều gây tổn thương trực tiếp cơ tim và gây TMCB do thuyên tắc hoặc
tắc nghẽn MV. Tương tự như với CABG, tăng dấu ấn tim rõ có tiên lượng
xấu nhưng dữ liệu chưa sẵn có. Tiêu chuẩn cải tiến được đề nghị cho chẩn
đoán NMCT 72 giờ sau TAVI nhưng hiện còn quá ít bằng chứng và cũng có
thể hợp lý khi áp dụng cùng tiêu chuẩn như CABG.
- BN thực hiện các thủ thuật ngoài tim:
NMCT quanh thủ thuật là biến chứng mạch máu nặng thường gặp ở BN chịu
những PT lớn ngoài tim. Biến chứng này đi kèm với tiên lượng xấu và hầu
hết thường không có triệu chứng TMCB. Cần theo dõi thường quy dấu ấn
sinh học tim trước và 48-72 giờ sau thủ thuật ở BN nguy cơ cao. Các
nghiên cứu ở BN có PT ngoài tim cho thấy nhiều trường hợp NMCT được chẩn
đoán trong bối cảnh mất cân bằng kéo dài cung-cầu oxy cơ tim và nếu kèm
tăng và/hoặc giảm troponin là chỉ điểm NMCT type 2. Tuy nhiên, nghiên
cứu tử thiết những BN tử vong do NMCT quanh thủ thuật cho thấy có hiện
tượng vỡ mảng xơ vữa, kết tập tiểu cầu và hình thành huyết khối (NMCT
type 1) xảy ra ở 1 nửa các biến cố này. Do có sự khác biệt trong tiếp
cận điều trị nên việc theo dõi sát lâm sàng để quyết định là cần thiết.
- Rối loạn nhịp nhanh/chậm:
Nguyên nhân thường gặp do đau, tăng hoạt động hệ giao cảm, do dùng
thuốc hoặc do ngưng đột ngột thuốc(VD ức chếβ). Cơ chế tăng troponin
trong trường hợp này là cơ tim bị hoại tử do nhịp nhanh, tình trạng viêm
cơ tim sẵn có, rối loạn chức năng cơ tim do sự thay đổi thể tích của
các buồng nhĩ và thất, tăng áp trong buồng tim hoặc vi huyết khối mạch
vành(4).
- Suy tim:
Tăng troponin ở BN suy tim do nhiều nguyên nhân. NMCT type 1 là nguyên
nhân quan trọng và luôn cần xem xét ở BN có suy tim mất bù cấp. NMCT
type 2 có thể do tăng áp lực căng thành, tắc nhánh nhỏ MV, RL chức năng
nội mạc, thiếu máu hoặc tụt HA. Bên cạnh NMCT type 1 và 2, hiện tượng
chết tế bào theo chương trình, tổn thương tế bào trực tiếp liên quan đến
viêm, TK-thể dịch, viêm cơ tim, bệnh cơ tim do stress..đều có thể gây
tăng troponin bất thường.
Trong thực hành, BN vào viện vì suy tim mất bù cấp, cần đo troponin với
mục đích xác nhận hoặc loại trừ NMCT type 1 là yếu tố thúc đẩy. Chẩn
đoán NMCT type 1 khi biểu hiện động học rõ với tăng và/hoặc giảm có ý
nghĩa troponin kèm triệu chứng TMCB, thay đổi TMCB mới trên ECG hoặc mất
vùng chức năng tim mới trên test không xâm lấn. Một điều lưu ý ở đây là
trên siêu âm tim nếu ghi nhận buồng tim đã dãn to và thành tim có vùng
mỏng, vô hoặc loạn động có thể là dấu hiệu TMCB nhưng là TMCB cũ và sẽ
không phù hợp để cung cấp 1 bằng chứng của tiêu chuẩn TMCB mới trong
định nghĩa về NMCT.Giải phẫu MV đã biết trước sẽ giúp ít rất nhiều cho
chẩn đoán, nếu ĐMV bình thường thì NMCT type 2 hoặc do cơ chế không MV
có thể giải thích tăng bất thường troponin. Khi giải phẫu MV chưa được
biết thì việc tăng troponin vượt quá 99th URL đơn thuần không thiết lập
chẩn đoán NMCT cấp và cũng không xác định cơ chế bên dưới gây tăng
troponin. Trong trường hợp này, những thông tin thêm từ CMV, tưới máu cơ
tim, MRI sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn nguyên nhân bên dưới.
- Tăng huyết áp nặng:
Tăng huyết áp không được kiểm soát tốt về lâu dài sẽ làm tăng sức căng
thành cơ tim, làm phì đại thất trái, tái cấu trúc cơ tim và dẫn đến
bệnh cơ tim do tăng huyết áp. Phì đại thất trái xảy ra khi thất trái làm
việc quá sức để bơm máu vào hệ tuần hoàn và chống lại kháng lực mạch hệ
thống. Vì vậy khi đó cơ timđòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng và oxy hơn.
Khi mất đi cán cân cung-cầu thì cũng sẽ gây phá huỷ màng tế bào,có thể
kết hợp cùng tổn thương do tắc nghẽn MV gây thiếu máu cơ tim và làm tăng
troponin(4).
- Bệnh thận mạn:
Tăng troponin tim ở BN bệnh thận mạn sẽ làm tăng nguy cơ tử vong,giảm
thời gian sống còn của BN. Nguyên nhân chính xác chưa được sáng tỏ.
Nhiều tác giả cho rằng có thể do tổn thương tế bào cơ tim dưới lâm sàng,
các đáp ứng viêm trong suy thận, tăng tính thấm màng tế bào và do quá
tải thể tích mạn tính. Ngoài ra, bệnh thận mạn cũng có thể gây ra các ổ
vi nhồi máu từ đó làm tăng troponin tim. Vì vậy, khi tăng troponin ở
bệnh nhân bệnh thậnnên thực hiện lặp lại các xét nghiệm troponin để theo
dõi diễn biến động học. Troponin I trong trường hợp này được ưa chuộng
hơn troponin T vì không cần điều chỉnh điểm cắt cho ngưỡng chẩn
đoán,Quan trọng là nên theo dõi khuynh hướng tăng hay giảm troponin giúp
chẩn đoán phân biệt với NMCT để có hướng xử lý và điều trị đúng đắn.
Bảng 2: Ngưỡng troponin cần điều chỉnh ở BN có rối loạn chức năng thận(6)
Xét nghiệm
|
Ngưỡng chẩn đoán tối ưu cho BN có RL CN thận so với ngưỡng 99th giá trị tham khảo
|
Abbott hsTnI
|
1.1 lần
|
Roche hsTnT
|
2.1 lần
|
Siemens hsTnI
(Đang nghiên cứu)
|
3.6 lần
|
Beckman hsTnI
(Đang nghiên cứu)
|
2.8 lần
|
Abbott cTni
|
1.0 lần
|
Siemens Ultra-sTnI
|
1.2 lần
|
Beckman Accu sTnI
|
0.9 lần
|
- Đột quỵ cấp:
Các bệnh lý tổn thương hệ thần kinh trung ương nặng do đột quỵ thiếu
máu hay đột quỵ xuất huyết cũng làm tăng troponin. Đột quỵ thiếu máu và
nhiều loại xuất huyết não làm tổn thương hệ thần kinh của toàn cơ thể
trong đó nhịp tim và hệ dẫn truyền của tim được điều chỉnh bởi hệ thần
kinh tự động. Vì vậy, các tổn thương não có thể ảnh hưởng đến chức năng
tim và rối loạn nhịp tim. Tăng troponin tim trong trường hợp này là có
sự phá hủy cơ tim do mất cân bằng của hệ thần kinh tự động dẫn đến tăng
hoạt động giao cảm, tăng catecholamin ảnh hưởng lên tế bào cơ tim. Theo
dõi động học troponin, tìm và đánh giá các bằng chứng TMCB mới trên tim
(theo đúng định nghĩa về NMCT) là cách tiếp cận quan trọng trong biện
luận chẩn đoán và định hướng điều trị.
- BN nằm hồi sức tích cực (ICU):
Các tình trạng gây mất cân bằng cung cầu oxy cơ tim ngoài ĐMVluôn sẵn
có tại khoa HSCC: choáng (do tim, giảm thể tích, nhiễm trùng), suy hô
hấp nặng, thiếu máu nặng, THA với có/ không phì đại thất trái, RL nhịp
nhanh/ nhịp chậm, RL chức năng nội mô....Tăng troponin khá thường gặp ở
BN nằm ICU và thường đi kèm với tiên lượng xấu bất chấp tình trạng bệnh
nền là gì. Một vài trường hợp tăng troponin phản ánh NMCT type 2 gây ra
do tình trạng tăng nhu cầu oxy cơ tim trên nền BMV, một số khác do tình
trạng tăng catecholamine hoặc ngộ độc trực tiếp từ chất độc trong tuần
hoàn. Hơn thế nữa, một vài trường hợp NMCT type 1 cũng có thể xảy ra. Đó
thường là 1 thử thách cho nhà lâm sàng và cần có kế hoạch hành động khi
troponin tăng ở BN với bệnh lý nặng ở một hoặc nhiều cơ quan. Khi bệnh
nặng hồi phục, cần có quyết định tiếp theo là có hay không và dùng
phương pháp gì để đánh giá BMV hoặc bệnh tim cấu trúc, điều này tùy
thuộc vào yếu tố nguy cơ xơ vữa và tình trạng lâm sàng cụ thể từng BN.
1.3. Các thế hệ xét nghiệm troponin

Hình 3: Khoảng phát hiện của các thế hệ xét nghiệm troponin khác nhau(7).
Như trong hình 3, đường màu xanh đại diện cho dao động của troponin
trong người bình thường. Ngay sau khi khởi phát nhồi máu cơ tim, phóng
thích troponin tự do sẵn có trong bào tương do thiếu máu cục bộ hoặc có
tình trạng vi hoại tử (đường màu cam) làm tăng nhẹ troponin vàđã có
thểđược phát hiệnbởi các xét nghiệm troponin có độ nhạy cao. Sau 2-6 giờ
của NMCT có sự gia tăng đáng kể troponin phản ánh hoại tử cơ tim rộng
(đường màu đỏ). Chỉ có sự gia tăng đáng kể tại thời điểm này của
troponin, cácxét nghiệm troponin thế hệ đầu tiên và hiện tạimới có thể
phát hiện được. Như vậy, sự ra đời của xét nghiệm troponin siêu nhạy
giúp phát hiện mức độ thấp hơn của troponin bao gồm chỉ trong tình trạng
thiếu máu cục bộ/vi hoại tử (tăng độ nhạy) và thậm chí cả trong một số
dao động bình thường (giảm độ chuyên). Điều này mang ý nghĩa rất lớn
trên lâm sàng giúp người BS không bỏ sót căn bệnh nguy hiểm này mà việc
điều trị nó kịp thời theo y học hiện hành đã cải thiện rất nhiều cho
tiên lượng người bệnh. Giá trị lợi ích của xét nghiệm troponin siêu nhạy
(hsTroponin) được khẳng định trong khuyến cáo về NMCT của ESC 2015(8)
Bảng 3: Lợi ích của hsTroponin so với Troponin chuẩn
So với mẫu Troponin chuẩn, hsTroponin có các đặc điểm:
|
· Có giá trị tiên đoán âm cao hơn cho NMCT cấp
|
· Giảm được “khoảng mù troponin” dẫn đến phát hiện NMCT cấp sớm hơn
|
· Tăng 4% trị tuyệt đối và 20% trị tương đối phát hiện NMCT typ 1 và làm giảm chẩn đoán ĐTN không ổn định
|
· Làm tăng gấp 2 lần phát hiện NMCT typ 2
|
Mức độ hsTroponin nên được diễn dịch như 1 dấu ấn định
lượng cho tổn thương cơ tim (mức độ tăng cao hơn, khả năng phù hợp với
NMCT nhiều hơn)
|
· Tăng hơn 5 lần giới hạn trên giá trị tham khảo có giá trị tiên đoán dương cho NMCT typ 1 cao (> 90%)
|
· Tăng đến 3 lần giới hạn trên giá trị tham khảo có giá trị
tiên đoán dương cho NMCT cấp chỉ ở mức giới hạn (50-60%) và có thể gặp
phổ rộng các tình trạng khác
|
· Cũng thường phát hiện được troponin trong tuần hoàn ở những người khỏe mạnh
|
Mức độ Troponin tăng và/hoặc giảm khác biệt giữa tổn thương
cơ tim cấp và mạn (sự thay đổi rõ ràng hơn, khả năng phù hợp NMCT cấp
cao hơn)
|
Chẩn đoán nhanh và phân tầng nguy cơ là quan trọng cho điều trị cải
thiện sống còn trong NSTE-ACS và để giúp điều chỉnh chiến lược điều trị
theo nguy cơ ở từng cá thể. Trong bối cảnh này, troponin nhận được sự
chú ý đặc biệt trong khuyến cáo ESC năm 2015. So với troponin qui ước,
những mẫu thử này cho phép phát hiện một cách đáng tin cậy ngưỡng
troponin được phóng thích thấp hơn trong tuần hoàn, nên có giá trị tiên
đoán âm cao hơn và giảm được “khoảng mù troponin”, góp phần phát hiện
sớm hơn hội chứng MV cấp. Vì thế, mẫu thử hsTroponin (troponin siêu
nhạy) hiện tại được khuyến cáo hơn là mẫu troponin qui ước (I, A).
2. Ranh giới giữa tổn thương cơ tim không do TMCB kèm hoại tử và NMCT là gì?
Trả lời cho câu hỏi trên là BN đã có thỏa đầy đủ 2 tiêu chuẩn theo định nghĩa toàn cầu lần 3 về NMCT cấp(1):
1) Tăng và/hoặc giảm dấu ấn sinh học tim (thường dùng Troponin)động
học, với ít nhất một giá trị trênbách phân vị99th giới hạn tham khảo
trên (uper reference limit-URL)VÀ
2) Kèm với ít nhất một trong các dấu hiệu của thiếu máu cục bộ CẤPsau:
Ø Triệu chứng lâm sàngthiếu máu cục bộ cơ tim.
Ø Tiến triểnsóng Q bệnh lý trên ECG.
Ø Biến đổi mớiST-T một cách có ý nghĩa hoặc cóblock nhánh trái mớitrên ECG.
Ø Bằng chứng hình ảnh học mất mớivùng cơ tim còn sống hay bất thường vận độngvùngmới
Ø Xác định có huyết khối qua chụp MV hoặc tử thiết
Như vậy theo định nghĩa trên, những BN mặc dù có tăng troponin nhưng không chẩn đoán NMCT khi: troponin có tăng nhưng không động học (chưa thỏa tiêu chuẩn 1), troponin có tăng động học nhưng chưa ghi nhận bằng chứng của TMCB cấp(chưa
thỏa tiêu chuẩn 2). Một điều lưu ý rằng NMCT là 1 bệnh lý cấp tính diễn
tiến theo thời gian, nên những bằng chứng kèm theo bên cạnh tiêu chuẩn
động học troponin không chỉ dừng lại ở bằng chứng TMCB đơn thuần (vì có
thể là cũ hoặc đã là mạn tính trước đây) mà phải là các bằng chứng TMCB
mới và có diễn tiến qua thời gian theo dõi.
Do tính chất quan trọng cóảnh hưởng lớn đến quyết định lâm sàng, dưới
đây chúng ta cùng làm rõ các thành tố trong các tiêu chuẩn từ định nghĩa
trên
2.1. Khi nào tăng troponin được gọi là tăng có động học?
Một cách khái quát, tăng troponin động học là chúng ta có thể vẽ được
đường biểu diễn nồng độ phóng thích troponin trong máu theo thời gian
tương tự như trong các đồ thị mô tả kinh điển nồng độ troponin trong
NMCT cấp

Hình 5: Động học dấu ấn sinh học tim trong NMCT(2)
NMCT là một biến cố cấp tính gây giảm tưới máu cơ tim, tình trạng hoại
tử cơ tim gây phóng thích ồ ạt troponin vào tuần hoàn đạt đến đỉnh điểm
cao nhất rồi giảm dần theo thời gian đến khi troponin được thải trừ hoàn
toàn khỏi cơ thể, trừ khi có 1 tình trạng hoại tử tiếp tục lan rộng.
Theo hình 5 ở trên cho thấy đường biểu diễn troponin theo thời gian dốc
đứng ở triền lên (tăng ít nhất khoảng 50% giá trị 3giờ trước đó nếu
trước đó không tăng hoặc tăng ít nhất 20% giá trị 3 giờ trước đó nếu
trước đó có tăng) đạt đến đỉnh điểm 24-48 giờ sau khởi phát biến cố cấp
tùy theo có tái tưới máu hay không. Sau đó nồng độ troponin trong máu
giảm dần theo triền xuống, đường biểu diễn lài hơn triền lên (độ giảm
khoảng 20% giá trị 3-6 giờ trước đó) rồi thải trừ dưới ngưỡng phát hiện
của các xét nghiệm khoảng 7-10 ngày (Troponin I), 10-14 ngày (Troponin
T)(2, 9). Như vậy trong thực hành, để có tiêu chuẩn động học
troponin chúng ta phải lặp lại xét nghiệm troponin theo thời gian để
chứng minh triền lên tăng dốc đứng, đạt đỉnh 24-48 giờ và troponin cải
thiện dần ở triền xuống sau đó. Những trường hợp không thỏa tiêu chuẩn
tăng rồi giảm động học như đường biểu diễn (không thỏa tiêu chuẩn 1 về
định nghĩa NMCT) là những tình trạng tăng troponin mạn do nhiều cơ chế
và nguyên nhân khác nhau đã đề cập ở trên. Những trường hợp thỏa tiêu
chuẩn động học troponin chúng ta cần khảo sát tìm thêm bằng chứng TMCB
mới (tiêu chuẩn 2) trước khi chẩn đoán NMCT.
2.2. Triệu chứng lâm sàng nào phù hợp hay chưa phù hợp cho TMCB?
Triệu chứng TMCBcó thể bao gồm sự kết hợp các triệu chứng khó chịu khác
nhau từ ngực, chi trên, hàm dưới hay vùng thượng vị (có thể xảy ra khi
gắng sức hoặc khi nghỉ ngơi) hoặc có các triệu chứng tương đương thiếu
máu cục bộ như mệt, khó thở. Suy tim sung huyết hay sốc timmà không ghi
nhận nguyên nhân bệnh tim không do BMV(non-CHD)được xem là triệu chứng
tương đương TMCB. Các khó chịu do TMCB cấp phải kéo dàiít nhất 20 phút.
Thông thường, sự khó chịu sẽ lan tỏa cả 1 vùng, không khu trú và không
cóđiểm đau rõ, cũng không bị ảnh hưởng bởi vận động vùng ngực và tay, và
nó thường kèm theo triệu chứng TK thực vật như toát mồ hôi, buồn nôn
hoặc ngất.
Triệu chứng không điển hình như:mệt, nôn, buồn nôn, đau bụng…không
được sử dụng như chỉ tiêu chẩn đoán (như triệu chứng đau thắt ngực
tương đương) dù nó có ích về phương diện lâm sàng trong việc đạt chẩn
đoán chính xác (nó chỉ là triệu chứng đi kèm).
Ngược lại, các triệu chứng không điển hình (như hồi hộp hoặc ngưng tim)
hoặc thậm chí không triệu chứng có thể có NMCT đặc biệt ở các đối tượng
như phụ nữ, người già, ĐTĐ.
Bằng chứng lâm sàng TMCB này trên thực tế đôi khi không thu thập được
mặc dù chúng ta có thăm hỏi bệnh cùng người nhà BN như ở BN tai biến
mạch máu não, BN nặng phải thở máy, sau phẫu thuật.. khi đó chúng ta
hoàn thành chẩn đoán từ các bằng chứng khác của tiêu chuẩn TMCB cấp.
2.3. Các tiêu chuẩn ECG nào được khuyến cáo?(1, 2)
ECG trong NMCT cấp (không có LBBB)
|
ECG trong NMCT cấp (trong bối cảnh LBBB)
|
ST chênh lên
|
· ST chênh lên ≥ 1mm và cùng chiều (concordant) với QRS (5 điểm)
· ST chênh xuống ≥ 1mm ở V1, V2 hoặc V3 (3 điểm)
· ST chênh lên ≥ 5 mm và ngược chiều (discordant) với QRS (2 điểm)
Điểm số ≥ 3 có 98% đặc hiệu cho NMCT cấp
|
ST chênh lên mới tại điểm J ở 2 đạo trình liên tiếp với các giá trị điểm cắt sau:
· ≥0.1mV ở tất cả chuyển đạo (trừ V2-V3)
· Tại V2-V3 các điểm cắt sau
§≥0.2mV ở nam ≥ 40 tuổi
§≥0.25mV ở nam < 40 tuổi
§≥0.15mV ở nữ
|
|
ST chênh xuống và thay đổi sóng T
|
ECG trong NMCT cũ (không phì đại thất trái và LBBB)
|
· ST chênh xuống mới với đi ngang hoặc chúc xuống ở 2 đạo trình liên tiếp
· Sóng T đảo ≥0.1mV liên tiếp 2 đạo trình có sóng R trội hoặc R/S > 1
|
· Bất kỳ sóng Q ở V2-V3 ≥ 0.02s hoặc dạng QS ở V2-V3
· Sóng Q ≥ 0.03s và sâu ≥0.1mV hoặc có dạng QS ở I,II, avL, avF,
hoặc V4-V6 trong bất kỳ nhóm 2 đạo trình liên tiếp (I, avL; V1-V6; II,
III, avF)
· Sóng R ≥ 0.04s ở V1-V2 và R/S ≥ 1 với sóng T dương cùng chiều trong trường hợp không có khiếm khuyết dẫn truyền.
|
2.4. Khi nào RL vận động vùng gợi ý là mới trên hình ảnh học?
Hình ảnh học có thể hữu ích trong chẩn đoán NMCT cấp vì khả năng phát
hiện cao các bất thường về vận động vùng hoặc mất vùng cơ tim còn sống
trong trong bối cảnh troponin tăng động học.Độ dày thành cơ tim và vận
động vùng bất thường có thể được gây ra bởi NMCT cấp hoặc bởi bệnh lý
khác như NMCT trước đây, cơ tim đờ hoặc ngủ đông. Những tình trạng không
do thiếu máu cục bộ, chẳng hạn như bệnh cơ tim, các bệnh tim do viêm
hoặc bệnh cơ tim do thâm nhiễm cũng có thể dẫn đến mất vùng cơ tim sống
hay bất thường về mặt chức năng. Do đó, giá trị tiên đoán dương của hình
ảnh trong NMCT cấp không cao, trừ khi những tình trạng này được loại
trừ. Siêu âm tim cũng giúp cung cấp đánh giá nhiều nguyên nhân
non-ischemic của đau ngực cấp, chẳng hạn như viêm cơ tim-màng ngoài tim
cấp, bệnh van tim, bệnh cơ tim, thuyên tắc phổi hoặc bóc tách động mạch
chủ. Nó cũng là kỹ thuật hình ảnh được lựa chọn cho việc phát hiện các
biến chứng của NMCT cấp, bao gồm vỡ thành tự do tim, thông liên thất
cấp, và hở van 2 lá do đứt cơ nhú hoặc doTMCB(1).
Siêu âm tim nếu ghi nhận buồng tim đã dãn to và thành tim có vùng mỏng
vô hoặc loạn động có thể là dấu hiệu TMCB nhưng là TMCB cũ và sẽ không
phù hợp để cung cấp 1 bằng chứng của tiêu chuẩn TMCB mới trong định
nghĩa về NMCT. Nếu ghi nhận buồng tim không dãn, thành tim không mỏng mà
có RL vận động vùng gợi ý RL vận động vùng mới là đóng góp 1 bằng chứng
TMCB mới trong tiêu chẩn NMCT. Điều này càng có ý nghĩa khi chúng ta
loại trừ các bệnh lý khác gây RL vận động vùng hoặc khi BN đã có bằng
chứng bình thường trên siêu âm tim trước đây
3. Ranh giới giữa NMCT type 1 và type 2 là gì?

Hình 6: Thiếu máu cục bộ cơ tim và nhồi máu cơ tim(2).
Theo hình 6, TMCB và NMCTcó thể là kết quả từ nhiều tiến trình BMV khác
nhau bao gồm co thắt MV, tăng nhu cầu oxy cơ tim trên nền tổn thương
mạch vành cố định, và xói mòn hoặc vỡ mảng xơ vữa dẫn đến hình thành
huyết khối cấp tính và gây thiếu máu cục bộ. Tất cả đều gây nên tình
trạng mất cân bằng cán cân cung cầu oxy cơ tim vàcó thể thúc đẩy các
triệu chứng thiếu máu cục bộ, khi tình trạng này đủ nghiêm trọng hoặc
kéo dàithì sẽ dẫn đến hoại tử hoặc NMCT. Những biến cốkhông qua trung
gian huyết khối (hình 6nửa dưới, bên trái) thường điển hìnhgây dạng
STkhông chênh lên trên ECGvànếu thiếu máu cục bộ nặng, đủ lâu có thể gây
tăng các dấu ấn sinh học hoại tử tim, trong trường hợp đó chúng được
phân loại NMCT type 2. Các tổn thương huyết khối trên nềnxơ vữa là biến
cố sinh bệnh học chủ yếu của một hội chứng vành cấp. Việc giảm dòng chảy
có thể được gây ra bởi một huyết khối tắc mạch hoàn toàn (hình 6nửa
dưới, bên phải), hoặc bởi một huyết khối gâybán tắc MV(hình 6 nửa dưới,
giữa) và tình trạng thiếu máu cục bộ này có thể xảy ra với có hoặc không
có ST chênh lên trên điện tâm đồ. NMCT type 2 còn có thể do tình trạng
co thắt MV/RL chức năng nội mạc, mất cân bằng cung cầu oxy cơ tim trên
nền MV bình thường (mất cân bằng cung cầu đơn thuần) hay MV có mảng xơ
vữa cố định(2)(phía trên hình 6).
Như vậy NMCT có ST chênh lên là NMCT type 1 (cần loại trừ ST chênh lên
thoáng qua do co thắt MV) còn NMCT không ST chênh lên có thể là NMCT
type 1 (có thành lập huyết khối/xơ vữa) hoặc NMCT type 2 (không sinh
huyết khối/xơ vữa, mà do mất cân bằng cung cầu oxy cơ tim). Do đó ở 1 BN
thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán NMCT (có động học troponin và bằng chứng TMCB
mới) và không có ST chênh lên trên ECG (NMCT không ST chênh), đâu là
ranh giới giữa NMCT type 1 và típ 2? câu trả lời là khi trên lâm sàng BN
có các tiêu chuẩn giảm cung, tăng cầu hay kết hợp cả 2. Các tiêu chuẩn
này chưa có sự đồng thuận của các tác giả và chưa có khuyến cáo cụ thể
từ các hiêp hội uy tính trên thế giới. Năm 2013, tác giả Lotte Saabycùng
cộng sự với sự tham gia của Kristian Thygesen (GS chủ tọa cho bản định
nghĩa toàn cầu lần 3 về NMCT) đã đề nghị cụ thể các tiêu chuẩn về mất
cân bằng cung cầu oxy cơ tim trong NMCT type 2(10, 11):
- Các tình trạng giảm cung cấp oxy cơ tim:
· Thiếu máu được định nghĩa là khi hemoglobin <5.5 mmol / L đối với nam và <5.0 mmol / L đối với nữ;
· Sốc được định nghĩa khi là huyết áp tâm thu <90 mm Hg cùng với
các dấu hiệu của rối loạn chức năng cơ quan (toan chuyển hóa, PaO2
<60 mmHg, thiểu niệu <30 mL/h trong vòng ít nhất 3 giờ, hoặc có
biểu hiện bệnh lý não).
· Nhịp chậm đòi hỏi phải điều trị bằng thuốc hoặc tạo nhịp.
· Thuyên tắc mạch vành trong bối cảnh của tăng nguy cơ tắc mạch (viêm
nội tâm mạc tim trái, huyết khối trong buồng tim, có bằng chứng huyết
khối tĩnh mạch, tồn tại lổ bầu dục hoặc thông liên nhĩ).
· Suy hô hấp với PaO2 oxy động mạch <60 mmHg và có dấu hiệu lâm sàng của suy hô hấp cấp tính kéo dài≥20 phút
- Các tình trạng tăng nhu cầu oxy cơ tim:
· Nhịp nhanh thất kéo dài ≥ 20 phút
· Nhịp nhanh trên thất kéo dài≥ 20 phút với tần số thất> 150 nhịp/phút;
· Phù phổi cấp do THA được định nghĩa là sự hiện diện của HA tâm
thu> 160mm Hg, dấu hiệu phù phổi, và đòi hỏi phải điều trị với
nitrate hoặc lợi tiểu.
· THA với huyết áp tâm thu> 160 mm Hg kèm phì đại thất trái siêu âm tim hoặc ECG.
Trong thực hành 1 tình huống lâm sàng khá thường gặp là BN có đủ tiêu
chuẩn chẩn đoán NMCT (động học troponin và có bằng chứng TMCB mới), lại
có nhiều yếu tố nguy cơ sinh xơ vữa (THA, ĐTĐ, hút thuốc lá…) và có bệnh
nền nặng kết hợp thỏa các tiêu chuẩn gây mất cân bằng cung cầu oxy cơ
tim, câu hỏi được đặt ra là khi nào chúng ta nghĩ khả năng có NMCT type
1? Nếu ECG là NMCT có ST chênh lên thì trường hợp này là NMCT típ 1.
Nếu ECG cho thấy NMCT không ST chênh lên sẽ khó khăn cho chẩn đoán phân
biệt giữa NMCT type 1 và type 2, tuy nhiên việc khởi trị thuốc và các
can thiệp cho NMCT type1 ở thời điểmhiện tại thường bị chống chỉ định do
tình trạng bệnh kết hợp nặng, RL chức năng nhiều cơ quan (RL đông máu,
giảm tiểu cầu, thiếu máu, tụt HA, tổn thương gan thận cấp và đa cơ quan,
NMN diện rộng…). Khi BN trở nên ổn định hơn, việc khảo sát toàn diện về
tim mạch, mạch vành, hội chẩn các chuyên khoa liên quan nhằm đánh giá
chẩn đoán và lựa chọn phương pháp khởi trị chuẩn mực là quyết định phù
hợp.
III.KẾT LUẬN
NMCT type 2 là bệnh lý khá thường gặp trong các cuộc hội chẩn giữa BS
tim mạch với các BS chuyên khoa khác. Việc phân biệt có hay không NMCT
và NMCT là type 1 hay type 2 là 1 thách thức trong chẩn đoán, đòi hỏi
người BS phải tiếp cận từng bước theo đúng các tiêu chuẩn về định nghĩa
và khuyến cáo hiện hành. Khởi trị không thích hợp (do nhận định chẩn
đoán sai lầm hoặc do quá tích cực mà vi phạm các chống chỉ định tương
đối tại thời điểm quyết định)không những không có lợi mà có thể gây hại
dẫn đến kết cục xấu hơn cho người bệnh. Y học luôn tiến bộ không ngừng
trên con đường dò tìm sự thật, đặc biệt trong lĩnh vực tim mạch. Hiện
vẫn chưa có những tiêu chuẩn chẩn đoán và điều trị rõ ràng cho bệnh lý
này từ các hiệp hội uy tính trên thế giới và chúng ta chờ đón định nghĩa
toàn cầu lần 4 về NMCT theo dự kiến sẽ được đăng tải vào năm 2018.
Trong số tới, chúng tôi sẽ viết tiếp về đặc điểm lâm sàng và cách tiếp cận điều trị NMCT type 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Kristian Thygesen, S. J. Third Universal Definition of Myocardial
Infarction. Journal of the American College of Cardiology.
2012;60:1581–98.
2. Benjamin M. Scirica and David A. Morrow. ST-Elevation Myocardial Infarction: Pathology, Pathophysiology, and Clinical Features. In: 10th, editor. Braunwalds Heart Disease - A Textbook of Cardiovascular Medicine2015. p. 1068-94.
3. Saaby. L. Mortality Rate in Type 2 MI: Observations from an Unselected Hospital Cohort. The American Journal of Medicine. 2014;127:295-300.
4. Nguyễn Thanh Hiền, Trương Phan Thu Loan. Tăng Troponin tim trong các bệnh lý không do hội chứng mạch vành cấp. Chuyên đề tim mạch học. 2015;Tháng 2
5. Allan S Jaffe, David A Morrow. Troponin testing: Clinical use. Uptodate 2016. 2016.
6. Raphael Twerenbold, Karin Wildi. Optimal Cutoff Levels of More Sensitive Cardiac Troponin Assays for the Early Diagnosis of Myocardial Infarction in Patients With Renal Dysfunction. Circulation. 2015;131:2041-50.
7. Willibald Hochholzer, David A. Morrow. Novel biomarkers in cardiovascular disease: Update 2010. Am Heart J 2010;160:583-94.
8. Marco Roffi, Carlo Patrono. 2015 ESC Guidelines for the management of acute coronary syndromes in patients presenting without persistent ST-segment elevation. European Heart Journal. 2016;37:267-315.
9. Kristian Thygesen, Johannes Mair. How to use high-sensitivity cardiac troponins in acute cardiac care. European Heart Journal 2012;33:2252-7.
10. Lotte Saaby, Kristian Thygesen. Classification of Myocardial Infarction: Frequency and Features of Type 2 Myocardial Infarction. The American Journal of Medicine. 2013;126: 789-97.
11. Joseph S. Alpert, Kristian A. Thygesen. Diagnostic and Therapeutic Implications of Type 2 Myocardial Infarction: Review and Commentary. The American Journal of Medicine. 2014;127:105-8.
2. Benjamin M. Scirica and David A. Morrow. ST-Elevation Myocardial Infarction: Pathology, Pathophysiology, and Clinical Features. In: 10th, editor. Braunwalds Heart Disease - A Textbook of Cardiovascular Medicine2015. p. 1068-94.
3. Saaby. L. Mortality Rate in Type 2 MI: Observations from an Unselected Hospital Cohort. The American Journal of Medicine. 2014;127:295-300.
4. Nguyễn Thanh Hiền, Trương Phan Thu Loan. Tăng Troponin tim trong các bệnh lý không do hội chứng mạch vành cấp. Chuyên đề tim mạch học. 2015;Tháng 2
5. Allan S Jaffe, David A Morrow. Troponin testing: Clinical use. Uptodate 2016. 2016.
6. Raphael Twerenbold, Karin Wildi. Optimal Cutoff Levels of More Sensitive Cardiac Troponin Assays for the Early Diagnosis of Myocardial Infarction in Patients With Renal Dysfunction. Circulation. 2015;131:2041-50.
7. Willibald Hochholzer, David A. Morrow. Novel biomarkers in cardiovascular disease: Update 2010. Am Heart J 2010;160:583-94.
8. Marco Roffi, Carlo Patrono. 2015 ESC Guidelines for the management of acute coronary syndromes in patients presenting without persistent ST-segment elevation. European Heart Journal. 2016;37:267-315.
9. Kristian Thygesen, Johannes Mair. How to use high-sensitivity cardiac troponins in acute cardiac care. European Heart Journal 2012;33:2252-7.
10. Lotte Saaby, Kristian Thygesen. Classification of Myocardial Infarction: Frequency and Features of Type 2 Myocardial Infarction. The American Journal of Medicine. 2013;126: 789-97.
11. Joseph S. Alpert, Kristian A. Thygesen. Diagnostic and Therapeutic Implications of Type 2 Myocardial Infarction: Review and Commentary. The American Journal of Medicine. 2014;127:105-8.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét